Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC),
Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum
(Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
|
Hỏi:
Xin cha cho biết thêm thí dụ về các hành vi phụng vụ khác, ngoài các bí
tích, Các Giờ Kinh Phụng Vụ và tuyên khấn trong Dòng tu. - T. C.,
Manila, Philippines
Đáp: Mặc dù độc giả này đã nêu ra các hành vi phụng vụ quan trọng nhất, đó là các bí tích, Các Giờ Kinh Phụng Vụ, cũng như việc khấn Dòng, ông đã để mở một loạt các khả năng khác, vốn là phụng vụ thực sự, đặc biệt là lĩnh vực rộng lớn của các á bí tích phụng vụ .
Một số hành vi phụng vụ là liên quan mật thiết với các bí tích. Vì vậy, các nghi thức đặt Mình Thánh Chúa và chầu Mình Thánh Chúa phát sinh từ hy tế Thánh lễ, nhưng tự chúng không phải là các bí tích. Trong cùng một cách thức như thế, tất cả các nghi thức, mà trong đó có việc cho tín hữu Rước lễ.
Nghi thức làm phép các dầu thánh cũng là phụng vụ và, trong khi chúng là cần thiết cho các bí tích, tự chúng không phải là bí tích.
Tương tự như vậy, các lời nguyện khác nhau cho bệnh nhân, người hấp hối và người qua đời, được gắn liền với bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, nhưng cũng có thể được tách ra khỏi bí tích này, cho phù hợp với sách Nghi thức. Tang lễ được cử hành ngoài Thánh Lễ cũng là các nghi thức phụng vụ cách đầy đủ.
Nghi thức đón nhận ứng viên cho chức thánh cũng là một nghi thức phụng vụ. Tương tự như vậy, các nghi thức thiết định thầy đọc sách và thầy giúp lễ là các bước hướng đến bí tích Truyền chức thánh, mặc dù không là độc quyền cho bí tích này.
Tương tự với việc khấn Dòng, nhưng không hoàn toàn giống nhau, là nghi thức Hiến thánh các Trinh nữ trước mặt Giám mục. Cũng có việc chúc phong cho một viện phụ hoặc viện mẫu.
Trong thời gian trước kia, việc hiến thánh một vị vua hoặc nữ hoàng đã được kể vào số các nghi thức này.
Ngoài ra, còn có các kinh nguyện trong Sách các Phép. Các việc làm phép này có thể dao động từ việc làm phép trọng thể nước thánh, đến việc làm phép đơn giản một bữa ăn. Một số trong các việc làm phép này luôn được cử hành trong Thánh lễ, một số khác thì thỉnh thoảng, và một số khác nữa thì không bao giờ cử hành trong Thánh lễ. Tuy nhiên, tất cả đều được coi là phụng vụ, bao gồm cả các việc làm phép bởi giáo dân, trong chừng mực khi cuốn sách được ban hành bởi Giáo Hội như một cuốn sách phụng vụ, và được Giáo Hội xem là kinh nguyện đúng đắn của mình.
Chúng ta không được quên rằng các nghi thức trừ quỷ cũng rơi vào tiêu đề chung của á bí tích phụng vụ, mặc dù việc sử dụng nó là chỉ dành cho các linh mục được ủy quyền mà thôi.
Việc Cử hành Lời Chúa, mặc dù nó đi theo một lược đồ hoặc phác thảo đã được phê duyệt, chứ không phải là một văn bản được chấp thuận, cũng là phụng vụ, vì Giáo Hội đã đặc biệt dự tính khả năng này.
Sách Nghi lễ Giám Mục cũng liệt kê một số nghi thức, vốn thường được dành riêng cho ngài, và một số nghi thức này thường được cử hành trong Thánh lễ. Thí dụ, có việc đặt viên đá đầu tiên, việc cung hiến hoặc làm phép nhà thờ và bàn thờ, và việc làm phép giếng rửa tội, thánh giá và chuông. Ngoài ra còn có việc làm phép trọng thể một ảnh Đức Mẹ, làm phép nghĩa trang, và các lời nguyện sau khi một nhà thờ bị giải thánh.
Có một số nghi thức riêng cho Giám mục, chẳng hạn như nghi thức nhận Giáo phận hay nhà thờ chính tòa, việc nhậm chức với dây pallium (phù hiệu) cho vị Tổng giám mục chính tòa, và các nghi thức cho việc tấn phong các Hồng Y.
Trong các dịp hiếm có, có các nghi thức riêng cho các giai đoạn khác nhau của quá trình phong thánh.
Danh sách này có lẽ là chưa đầy đủ. Tuy nhiên, tôi tin rằng tôi đã đề cập đến các nghi thức phụng vụ quan trọng nhất.
Đáp: Mặc dù độc giả này đã nêu ra các hành vi phụng vụ quan trọng nhất, đó là các bí tích, Các Giờ Kinh Phụng Vụ, cũng như việc khấn Dòng, ông đã để mở một loạt các khả năng khác, vốn là phụng vụ thực sự, đặc biệt là lĩnh vực rộng lớn của các á bí tích phụng vụ .
Một số hành vi phụng vụ là liên quan mật thiết với các bí tích. Vì vậy, các nghi thức đặt Mình Thánh Chúa và chầu Mình Thánh Chúa phát sinh từ hy tế Thánh lễ, nhưng tự chúng không phải là các bí tích. Trong cùng một cách thức như thế, tất cả các nghi thức, mà trong đó có việc cho tín hữu Rước lễ.
Nghi thức làm phép các dầu thánh cũng là phụng vụ và, trong khi chúng là cần thiết cho các bí tích, tự chúng không phải là bí tích.
Tương tự như vậy, các lời nguyện khác nhau cho bệnh nhân, người hấp hối và người qua đời, được gắn liền với bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, nhưng cũng có thể được tách ra khỏi bí tích này, cho phù hợp với sách Nghi thức. Tang lễ được cử hành ngoài Thánh Lễ cũng là các nghi thức phụng vụ cách đầy đủ.
Nghi thức đón nhận ứng viên cho chức thánh cũng là một nghi thức phụng vụ. Tương tự như vậy, các nghi thức thiết định thầy đọc sách và thầy giúp lễ là các bước hướng đến bí tích Truyền chức thánh, mặc dù không là độc quyền cho bí tích này.
Tương tự với việc khấn Dòng, nhưng không hoàn toàn giống nhau, là nghi thức Hiến thánh các Trinh nữ trước mặt Giám mục. Cũng có việc chúc phong cho một viện phụ hoặc viện mẫu.
Trong thời gian trước kia, việc hiến thánh một vị vua hoặc nữ hoàng đã được kể vào số các nghi thức này.
Ngoài ra, còn có các kinh nguyện trong Sách các Phép. Các việc làm phép này có thể dao động từ việc làm phép trọng thể nước thánh, đến việc làm phép đơn giản một bữa ăn. Một số trong các việc làm phép này luôn được cử hành trong Thánh lễ, một số khác thì thỉnh thoảng, và một số khác nữa thì không bao giờ cử hành trong Thánh lễ. Tuy nhiên, tất cả đều được coi là phụng vụ, bao gồm cả các việc làm phép bởi giáo dân, trong chừng mực khi cuốn sách được ban hành bởi Giáo Hội như một cuốn sách phụng vụ, và được Giáo Hội xem là kinh nguyện đúng đắn của mình.
Chúng ta không được quên rằng các nghi thức trừ quỷ cũng rơi vào tiêu đề chung của á bí tích phụng vụ, mặc dù việc sử dụng nó là chỉ dành cho các linh mục được ủy quyền mà thôi.
Việc Cử hành Lời Chúa, mặc dù nó đi theo một lược đồ hoặc phác thảo đã được phê duyệt, chứ không phải là một văn bản được chấp thuận, cũng là phụng vụ, vì Giáo Hội đã đặc biệt dự tính khả năng này.
Sách Nghi lễ Giám Mục cũng liệt kê một số nghi thức, vốn thường được dành riêng cho ngài, và một số nghi thức này thường được cử hành trong Thánh lễ. Thí dụ, có việc đặt viên đá đầu tiên, việc cung hiến hoặc làm phép nhà thờ và bàn thờ, và việc làm phép giếng rửa tội, thánh giá và chuông. Ngoài ra còn có việc làm phép trọng thể một ảnh Đức Mẹ, làm phép nghĩa trang, và các lời nguyện sau khi một nhà thờ bị giải thánh.
Có một số nghi thức riêng cho Giám mục, chẳng hạn như nghi thức nhận Giáo phận hay nhà thờ chính tòa, việc nhậm chức với dây pallium (phù hiệu) cho vị Tổng giám mục chính tòa, và các nghi thức cho việc tấn phong các Hồng Y.
Trong các dịp hiếm có, có các nghi thức riêng cho các giai đoạn khác nhau của quá trình phong thánh.
Danh sách này có lẽ là chưa đầy đủ. Tuy nhiên, tôi tin rằng tôi đã đề cập đến các nghi thức phụng vụ quan trọng nhất.
Thờ cúng ông bà có hợp với lời Chúa dạy trong Kinh Thánh không?
Việc thờ cúng ông bà nói lên lòng mê tín sai lầm cho rằng người
chết còn lai vãng trên mặt đất này, vì thế cần phải lập bàn thờ, phải kỵ
giỗ, bái lạy, dâng hương khói đầy đủ. Điều này có hợp với lời Chúa dạy
trong Kinh thánh không?
Kinh thánh đã nêu lên điều răn của Thiên Chúa: "Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi..." (Xh 20,12)
Điều
răn này được ghi trong Luật của ông Mô-sê. Chúa Giêsu đã nhắc lại điều
răn ấy và trách các kinh sư và biệt phái là đã không tuân giữa hẳn hoi
(x. Mt 15,3-9).
"Thờ cha, kính mẹ", trong tiếng Do-thái (kabad), có nghĩa là "tôn vinh cha mẹ", vì cha mẹ là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng mà Kinh thánh trình bày như là người cha (Hs 11,1-4; Is 1,2; Gr 3,19 v.v...) và cũng như là người mẹ (Is 49,15; Hs 11,8; Gr 31,20).
Tất
nhiên trong các dân tộc khác nhau, ở mỗi nơi người ta có cách thức
riêng để biểu lộ lòng tôn kính cha mẹ, tuỳ theo phong tục của họ: người
châu Âu ôm hôn cha mẹ; người châu Á thì chấp tay vái lạy để biểu lộ
lòng cung kính, chứ không bao giờ hôn ở chỗ công khai. Thánh Phaolô khi
đi truyền giáo cũng phải "nhập gia tuỳ tục" như thế. Ngay sau khi mới
bắt đâu tiếp xúc với dân ngoại, người đã không giữ tên Do-thái là Sa-un
của mình nữa, mà dùng tên Hy-lạp Phaolô (Cv 9,46). Sau này người còn
nói:
"Với người Do thái, tôi đã trở nên Do thái, để chinh phục người Do thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã nên người sống theo Lề Luật, dù không phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những người sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Kitô, đê chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người" (1 Cr 9,20-22).
Nguyên tắc sống mà thánh Phaolô nêu ra đó, ngày nay được gọi là "hội nhập văn hoá":
người tông đồ đồng hoá cách sống của mình với những người chung quanh,
tất nhiên trên bình diện văn hoá, mục đích là để đưa Tin Mừng đến cho
họ, giúp họ khám phá ra rằng những gì là tốt lành nơi con người đều phát
xuất từ Thiên Chúa, và khi người ta giữ các giới răn của Thiên Chúa,
người ta đề cao phẩm giá và bảo vệ chính sự sống của mình.
Việc
"thờ cha kính mẹ" rất được coi trọng nơi người châu Á trong đó có dân
tộc Việt-nam ta. Điều đó cũng rất phù hợp với đạo lý của Kitô giáo.
Chúng ta cần lưu ý vài điểm sau đây:
a. Người châu Á nói chung biểu lộ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ không những khi các ngài còn sống, mà cả khi các ngài đã qua đời. Khác với người ngoại giáo cho rằng những người quá cố hoặc là bị tiêu diệt hoàn toàn hoặc là linh hồn họ lai vãng chỗ này chỗ kia trên trái đất, người Công giáo tin rằng ông, bà, tổ tiên của mình đã qua đời một cách nào đó vẫn tồn tại trong Chúa, chứ không bị huỷ diệt thành hư vô. Vì thế tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên là một khía cạnh của mầu nhiệm các thánh thông công trong Nhiệm thể Chúa Kitô.
b. Người Việt-nam gọi lòng hiếu thảo đối với cha mẹ là "đạo hiếu": tuy gọi là "đạo", nhưng đây không phải là tôn giáo hay là tín ngưỡng, vì ông, bà, cha, mẹ đã qua đời không phải là những vị thần mà con, cháu phải thờ phượng. Tiếng "đạo" ở đây chỉ có nghĩa là những bổn phận (kiểu như "đạo làm người") mà con, cháu phải thi hành để biểu lộ lòng hiếu thảo như tưởng nhớ, nhắc lại công ơn, cầu nguyện...
Vì thế việc lập bàn thờ gia tiên trong gia đình (miễn là đặt dưới bàn thờ Chúa), dâng hoa, dâng trái, dâng hương không có nghĩa là dâng của lễ, nhưng có nghĩa là "tôn vinh" theo kiểu nói Kinh thánh "tôn vinh cha mẹ": nói cách khác các cử chỉ ấy chỉ có mục đích nhắc nhở cho con cháu sự tồn tại của các ngài trong tình yêu Thiên Chúa và công ơn các ngài đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng nuôi và giáo dục chúng ta.
c. Việc chấp tay vái lạy có nghĩa là bái chào một cách kính cẩn như nhiều dân tộc châu Á vẫn hiểu và làm (ví dụ Nhật, Trung-quốc, Hàn quốc, Thái-lan...), chứ không nhất thiết có nghĩa là tôn-thờ.
d. Ngày giỗ hay "kỵ nhật" là ngày kỷ niệm giáp năm ngày chết : đó là ngày mà con cháu thường họp nhau để kính nhớ tổ tiên, cầu nguyện cho các ngài, chứ không phải là ngày tế-tự hay kiêng kỵ.
Các giám mục miền Nam Việt-nam năm 1974 đã cho phép các tín hữu Công giáo trên đất nước này tôn kính tổ tiên "theo phong tục địa phương" và theo tinh thần như vừa nêu trên: đó là một cách cụ thể tuân giữ giới răn Chúa dạy "phải thờ cha, kính mẹ". Các giám mục cũng khuyên chúng ta phải tránh những phong tục mê tín, dị đoan như đặt hồn bạch (đăt khăn trắng lên mặt người chết để giữ linh hồn họ lại), đốt vàng, mã... Ngoài ra người công giáo chúng ta cũng nên tránh những cử chỉ, những vật liệu có thể gây hiểu lầm cho người ngoại giáo cũng như cho những anh em Kitô hữu không phải Công giáo.
a. Người châu Á nói chung biểu lộ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ không những khi các ngài còn sống, mà cả khi các ngài đã qua đời. Khác với người ngoại giáo cho rằng những người quá cố hoặc là bị tiêu diệt hoàn toàn hoặc là linh hồn họ lai vãng chỗ này chỗ kia trên trái đất, người Công giáo tin rằng ông, bà, tổ tiên của mình đã qua đời một cách nào đó vẫn tồn tại trong Chúa, chứ không bị huỷ diệt thành hư vô. Vì thế tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên là một khía cạnh của mầu nhiệm các thánh thông công trong Nhiệm thể Chúa Kitô.
b. Người Việt-nam gọi lòng hiếu thảo đối với cha mẹ là "đạo hiếu": tuy gọi là "đạo", nhưng đây không phải là tôn giáo hay là tín ngưỡng, vì ông, bà, cha, mẹ đã qua đời không phải là những vị thần mà con, cháu phải thờ phượng. Tiếng "đạo" ở đây chỉ có nghĩa là những bổn phận (kiểu như "đạo làm người") mà con, cháu phải thi hành để biểu lộ lòng hiếu thảo như tưởng nhớ, nhắc lại công ơn, cầu nguyện...
Vì thế việc lập bàn thờ gia tiên trong gia đình (miễn là đặt dưới bàn thờ Chúa), dâng hoa, dâng trái, dâng hương không có nghĩa là dâng của lễ, nhưng có nghĩa là "tôn vinh" theo kiểu nói Kinh thánh "tôn vinh cha mẹ": nói cách khác các cử chỉ ấy chỉ có mục đích nhắc nhở cho con cháu sự tồn tại của các ngài trong tình yêu Thiên Chúa và công ơn các ngài đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng nuôi và giáo dục chúng ta.
c. Việc chấp tay vái lạy có nghĩa là bái chào một cách kính cẩn như nhiều dân tộc châu Á vẫn hiểu và làm (ví dụ Nhật, Trung-quốc, Hàn quốc, Thái-lan...), chứ không nhất thiết có nghĩa là tôn-thờ.
d. Ngày giỗ hay "kỵ nhật" là ngày kỷ niệm giáp năm ngày chết : đó là ngày mà con cháu thường họp nhau để kính nhớ tổ tiên, cầu nguyện cho các ngài, chứ không phải là ngày tế-tự hay kiêng kỵ.
Các giám mục miền Nam Việt-nam năm 1974 đã cho phép các tín hữu Công giáo trên đất nước này tôn kính tổ tiên "theo phong tục địa phương" và theo tinh thần như vừa nêu trên: đó là một cách cụ thể tuân giữ giới răn Chúa dạy "phải thờ cha, kính mẹ". Các giám mục cũng khuyên chúng ta phải tránh những phong tục mê tín, dị đoan như đặt hồn bạch (đăt khăn trắng lên mặt người chết để giữ linh hồn họ lại), đốt vàng, mã... Ngoài ra người công giáo chúng ta cũng nên tránh những cử chỉ, những vật liệu có thể gây hiểu lầm cho người ngoại giáo cũng như cho những anh em Kitô hữu không phải Công giáo.
(Norberto, ofmvn.org)
(Nguyễn Trọng Đa/ Zenit.org 31-1-2017)