TÔI TIN KÍNH ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ CHỊU ĐÓNG ĐINH THẬP GIÁ
Đức Giê-su hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô.” (Mc 8,29)
Suy niệm: Đối với Đức Giê-su, việc các môn đệ chỉ lặp lại quan điểm của người ta “nói Con Người là ai” thì vẫn còn thiếu sót; cũng thế, đánh đồng Ngài với Ê-li-a, hay Gio-an Tẩy Giả hay với bất cứ một tiên tri nào khác, là chưa nhận thức đúng căn tính của Ngài. Thật vậy, tuyên xưng đức tin vào Đức Ki-tô không phải là trích dẫn lời tuyên bố của “ai đó” về một vị chúa chung chung, hay “một tiên tri nào đó.” Ngài đòi hỏi các môn đệ tuyên xưng với sự xác tín của chính bản thân mình: “Còn các con, các con nói Thầy là ai?” Mặt khác, lời tuyên xưng của Phê-rô “Thầy là Đấng Ki-tô” cũng chưa đủ rõ; Đức Giê-su còn minh giải: Quả thật, Ngài đúng là Đấng Ki-tô, nhưng là một Đấng Ki-tô sẽ phải chịu khổ hình, chịu đóng đinh thập giá, chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, nhờ đó, những ai tin vào Ngài sẽ được cứu độ.
Mời Bạn: Kinh Tin Kính được đọc chung trong Thánh lễ, nhưng phải nhớ rằng kinh ấy bắt đầu bằng những lời: “Tôi tin kính,” nghĩa là nó phải là lời tuyên xưng đức tin xuất phát từ sự xác tín đầy ý thức và tự do của chính bản thân mình. Hơn nữa, khi tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Đấng chịu đóng đinh vào thập giá, tôi đoan hứa “từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người” (x. Mc 8,34).
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày làm việc hy sinh hãm mình để kết hiệp với Chúa Ki-tô chịu đóng đinh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin ban Thánh Thần soi lòng mở trí cho con, để con thêm hiểu biết về Chúa, và nhờ đó thêm lòng yêu mến và vui lòng vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Chúa.
THÁNH ÔNÊSIMÔ
Thánh Ônêsimô là môn đệ trung kiên thứ hai của thánh Phaolô tông đồ
sau thánh Titô, căn cứ vào bức thư thánh nhân gửi cho cụ Philêmôn người
ta được biết Ônêsimô người thành Phigia là nô lệ của ông Philêmôn. Ông
này là một trong những nhà triệu phú nhưng đồng thời cũng còn là một tín
hữu đầy đức tin và giầu lòng bác ái vì Chúa Kitộ Ônêsimô đã ăn trộm của
thân chủ một món tiền khá lớn và tẩu thoát sang Rôma với hy vọng sẽ
tránh thoát được hình phạt nặng nề và kiếm được công ăn việc làm. Nhưng
sự thật phũ phàng làm cho Ônêsimô mở mắt nhìn thấy đời là bể khổ. Không
tìm được nơi nương thân, đàng khác lại rất liều mình lọt vào tay cảnh
binh đêm ngày tầm nã bọn nô lệ trốn thoát như săn bắt bầy sói dữ. Trên
bước đường cùng, Ônêsimô mới nhớ đến Phaolô. Sở dĩ Ônêsimô được biết
ngài là vì mấy năm trước đây có dịp đem thư của chủ cho ngài.Thật là may mắn cho Ônêsimô vì lúc này tìm đâu được bàn tay nâng đỡ, yên ủi, vỗ về bằng bàn tay của Phaolô. Thế là Ônêsimô tìm đến với thánh Phaolô lúc ấy đang bị giam cầm vì đức tin trong một ngục thất ở Rôma. Nhờ ảnh hưởng êm dịu và những lời giảng giải hấp dẫn của thánh nhân, Ônêsimô dần dần nhận biết lỗi mình, ăn năn khóc lóc đêm ngày.
Thiện chí và ơn thánh đã biến đổi Ônêsimô từ một tên nô lệ bất trung thành một người công giáo chân thật, hơn thế nữa, thành vị tông đồ dũng cảm của Chúa Kitô.
Sau những ngày chung sống vui vẻ, Phaolô thấy hoàn cảnh thuận tiện nói lên ý định của ngài là muốn cho Ônêsimô về thú tội với Philêmôn để hai người cùng được an tâm. Để yên lòng Ônêsimô, thánh tông đồ viết một bức thư cho Philêmôn và cam đoan sẽ can thiệp để cụ tha bổng cho Ônêsimô. Nhờ đó Giáo hội ngày nay mới có một bức thư quý hóa đặt nền tảng chắc chắn để giải quyết những vấn đề xã hội theo tinh thần Phúc âm… Bức thư tuy vắn tắt nhưng hàm súc chân lý nền tảng công bằng, bác ái xã hội. Ngoài ra nó còn phản chiếu sáng ngời lòng nhân hậu hiền từ và bác ái của vị tông đồ dân ngoại.
Ônêsimô vâng lời thánh Phaolô trở về nhà thân chủ mang theo lá thư bào chữa của ngài. Philêmôn đã tiếp nhận Ônêsimô và không còn đối xử với ngài như một tên nô lệ, trái lại đã coi ngài như một người anh em trong Chúa Kitô. Nhiều văn liệu khác còn cho biết sau dịp này Philêmôn còn giao phó Ônêsimô cho thánh Phaolô coi sóc và dậy dỗ thêm về giáo lý. Được sống đời người dân tự do, Ônêsimô vô cùng sung sướng và tỏ lòng biết ơn thánh Phaolô đến cực độ.
Từ đó Ônêsimô càng chuyên cần học lẽ đạo và hoàn toàn vâng lời thánh Tông đồ chỉ dậy.
Ngoài ra nhiều tác giả còn cho ta biết nhiều chi tiết khác nhau về đời sống thánh Ônêsimô.
Hầu hết các giáo phụ, đặc biệt thánh Giêrônimô cho rằng Ônêsimô thoạt tiên là tên nô lệ, sau trở lại và được phong chức phó tế. Về sau lại được thánh Phaolô phong cho làm Giám mục và cộng tác với ngài trong công cuộc truyền giáo lưu động như các thánh Tông đồ.
Một tài liệu khác nói về hoạt động của các tông đồ lại cho chúng ta biết thánh Phaolô đặt Ônêsimô làm Giám mục giáo phận Bêrê, thuộc Macêđonia.
Nhiều tác giả khác như thánh Inhaxiô, trong một lá thư lại cho rằng thánh Ônêsimô làm Giám mục thành Êphêsô vào năm 107 chứ không trực tiếp kế vị thánh Timôthêu.
Qua những tài liệu bất đồng và có ít giá trị lịch sử ấy, thiết tưởng chúng ta nên nhận ý kiến sau đây của ông Paphorốc (Papogbroch), một sử gia danh tiếng cổ thời. Ông viết: "Về thánh Ônêsimô, môn đệ thánh Tông đồ, đúng hơn chúng ta không nên nói gì về tòa giám mục của ngài, vì tài liệu mà chúng ta có không đủ bảo đảm sự quyết đoán của chúng ta ".
Phiền toái hơn nữa những ý kiến và cuộc tử đạo của thánh Ônêsimô. Theo Surio, thánh nhân bị gia hình tại Rôma và tử đạo tại Putêôli. Những người Hi lạp cũng đồng ý như thế, và một số tín hữu Latinh còn quyết đoán hơn. Nhưng ngược lại, nhiều sử gia khác lại cho rằng Ônêsimô tử đạo tại Putêôli không phải chính thánh Giám mục, nhưng là một tín hữu khác cùng tên. Một ít người khác lại chủ trương thánh Ônêsimô được lãnh triều thiên tử đạo khoảng năm 95 dưới thời Hoàng đế Đômixianô.
Dầu vậy từ thời giáo hội sơ khai ngay sau khi thánh nhân qua đời, giáo hữu Hi lạp đã kính nhớ ngài không những với các thánh tử đạo khác tại Côlôsê (Colosses), mà còn dành một lễ riêng vào ngày 15-02. Hôm ấy được coi là ngày đại lễ. Giáo hội La tinh, kính nhớ thánh Ônêsimô vào ngày 16-02 hằng năm.
Ngọn Nến Cháy Sáng
Nữ
sĩ người Thụy Ðiển được giải Nobel văn chương là bà Selma Lagerloeff có
kể một câu chuyện như sau: Có một kỵ mã nọ, sau khi đã tham dự một trận
thánh chiến thành công tại Thánh Ðịa, đã làm một lời thề. Anh muốn đốt
lên một ngọn nến ngay từ trên mộ của Chúa Giêsu và mang ánh sáng ấy về
quê hương của anhlà thành phố Fireheze bên Italia.
Quyết
định ấy đa biến anh thành một con người mới hoàn toàn. Từ một quân nhân
hung hãn chuyên cầm gươm giết người, nay người kỵ mã đã trở thành một
con người hiền hòa, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ thiệt thòi.
Trên
đường trở về quê hương, cầm ngọn nến cháy sáng trong tay, người kỵ mã
gặp không biết bao nhiêu kẻ cướp bóc, nhưng anh không hề động đến chiếc
gươm đang mang trong ngườị Anh hứa trao cho họ bất cứ điều gì họ muốn,
miễn là để cho anh được phép giữ lại ngọn nến đang cháy sáng trong tay.
Quân cướp lột hết tất cả những gì anh có, kể cả chiến bào và con ngựa
quý của anh. Họ cho anh một con ngựa già để đi từng bước cầm chừng. Sau
khi trải qua không biết bao nhiêu thử thách, giờ này, người kỵ mã cảm
thấy thảnh thơi hơn bao giờ hết. Anh cảm thấy thơ thới vì đã trút được
bỏ những của cải không cần thiết, nhưng anh vui mừng hơn cả vì vẫn còn
giữ được ngọn nến cháy sáng đã được thắp lên từ trên mồ của Chúạ Khi anh
về đến giữa phố, nhiều người nhìn anh như kẻ khờ dạị Họ chế nhạo và tìm
đủ cách để dập tắt ngọn nến trên tay anh. Nhưng người kỵ mã thà chết
còn hơn là để cho ngọn nến tắt ngụm trên tay mình. Và cuối cùng, anh đã
mang được ngọn nến cháy sáng về đến nhà thờ chính tòa của quê hương anh.
Anh dúng ánh sáng từ ngọn nến ấy đốt lên tất cả những ngọn nến trên bàn
thờ.
Trước
anh, nhiều người cũng đã cố gắng làm một lời thề như thế. Nhưng dọc
đường, vì nhiều lý do khác nhau, ngọn nến đã tắt ngụm. Ðược hỏi: Ðâu là
bía quyết giúp anh thành công như thế. Người kỵ mã trả lời như sau: "Tôi
đặt tất cả chú tâm vào ngọn nến. Tôi sẵn xàng bỏ hết tất cả mọi sự để
bảo vệ ngọn nến ấy".
Cuộc
đời của người tín hữu Kitô chúng ta vẫn thường được định nghĩa như một
cuộc hành trình, một cuộc hành trình trong đó mỗi người chúng ta cầm
cháy sáng trong ngọn nến của Ðức Tin. Bao lâu ngọn nến còn cháy sáng,
bấy lâu chúng ta còn tiến bước. Sóng gió, tăm tối trong cuộc hành trình
là chuyện không thể tránh được. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục giữcho ngọn
nến cháy sáng, chúng ta vẫn có thể tiến bước.
Chúa
Giêsu nói với chúng ta: "Chúng con là ánh sáng thế gian". Ước mơ duy
nhất của người kỵ mã trong câu chuyện trên đây là được dùng ngọn nến đốt
lên từ mồ Chúa để thắp sáng lên ngọn đèn trong nhà thờ. Ðó cũng phải là
ước mơ của mỗi người chúng tạ Ánháng được trao ban cho chúng ta là để
được truyền sang cho những ngọn đèn khác. Có biết bao nhiêu ngọn đèn
đang chờ đợi một chút ánh sáng từ ngọn nến của chúng ta để được cháy
lên?