Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2017

Thánh Kinh bằng hình: Chúa nhật V Mùa Chay năm A

Filled under:

Phúc Âm Ga 11, 3-7. 17. 20-27. 33b-45
“Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”

Tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô (Chúa Nhật 3) và là Con Người (Chúa Nhật 4) là điều Giáo Hội muốn những anh chị em ứng viên Bí tích Khai tâm nói lên trong hai lần Sát hạch.  Hôm nay cũng là lần cuối cùng trong Nghi thức, họ sẽ cùng với Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giê-su là sự sống. 
Tin Mừng Thánh Gioan ghi lại câu chuyện Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại nhằm nói lên chân lý về Chúa Ki-tô:  “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Sự sống là cao điểm và đích tới của tất cả mặc khải.  Sự sống ấy phải đạt tới mức toàn hảo của nó, tức là được vĩnh cửu và hạnh phúc.  Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm của sự sống lại và sự sống, nhưng cũng là cốt tủy của đời sống Ki-tô hữu.  Cho nên có lẽ đây là lý do Phụng vụ Lời Chúa mời gọi ta suy niệm về mầu nhiệm này qua bài Tin Mừng của Gio-an, trước khi ta bước vào Tuần Thánh với cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, để cùng chết đi với Người và sống lại trong con người mới.

“Lạy Chúa Giê-su,
          xưa Chúa có người bạn thân là La-da-rô,
          Chúa cũng coi các môn đệ là bạn hữu.
          Tạ ơn Chúa đã cho con những người bạn
          để nâng đỡ con trên đường đời.
          Dù chúng con có nhiều điểm khác biệt,
          nhưng xin hiệp nhất chúng con trong tình yêu.
          Xin cho chúng con biết
          yêu thương nhau thật tình,
          chia sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui,
          nâng nhau dậy khi vấp ngã,
          phấn khởi trước những thành công,
          khích lệ trước một cố gắng nhỏ,
          và nhất là thẳng thắn góp ý cho nhau,
          để cùng nhau tiến bộ.
          Lạy Chúa, xin mở rộng vòng tay con,
          để có thể đón nhận những người bạn mới.
          Xin cho con đừng trở nên nghèo nàn
          vì chỉ muốn làm bạn với ai giống con.
          Xin dạy con biết thế nào là gặp gỡ.
          Gặp gỡ không phải chỉ là quảng đại cho đi,
          mà còn là khiêm nhường nhận lãnh.
          Gặp gỡ không chỉ là tâm sự về mình,
          mà còn là lắng nghe người khác.
          Gặp gỡ không phải chỉ là phân phát sự giàu có của mình,
          mà còn là nhìn nhận và đón nhận
          sự phong phú của tha nhân.
          Lạy Chúa Giê-su,
          xin cho chúng con trở nên bạn của Ngài,
          nhờ đó, chúng con mãi mãi
          là bạn thân của nhau.  A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 115)


Xem Video clip

















Posted By Đỗ Lộc Sơn06:29

Nhà thờ Giáo xứ Bác Trạch nay được đổi tên thành Đền Thánh kính Lòng Thương Xót Chúa

Filled under:

Nhà thờ Giáo xứ Bác Trạch nay được đổi tên thành Đền Thánh kính Lòng Thương Xót Chúa tọa lạc tại Thôn Bác Trạch – Xã Vân Trường - Huyện Tiền Hải - Tỉnh Thái Bình – Giáo phận Thái Bình.
Vẻ đẹp độc đáo của Đền Lòng Thương Xót Chúa   Giáo Phận Thái Bình
Vẻ đẹp độc đáo của Đền Lòng Thương Xót Chúa Giáo Phận Thái Bình
Nhà thờ Bác Trạch thuộc xã Vân Trường, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Linh mục Chánh xứ Bác Trạch  là cha Aug. Nguyễn Quang Huy.
 Hạt giống Tin Mừng được gieo vào đất Bác Trạch năm 1735 dưới thời vua Lê – chúa Trịnh.
 Bác Trạch là giáo xứ lớn nhất Giáo phận Thái Bình với 6.541 nhân danh ( thống kê 2011).

Tân  Thánh đường được xây dựng với thời gian 7 năm (13/10/2006 -13/10/2013) và là nhà thờ thứ 6 trong lịch sử giáo xứ Bác Trạch.

Nhà thờ Bác Trạch có chiều dài:  92,5m; chiều rộng: 32m, tháp chuông cao: 61m, tum đầu cao: 57m.

Tổng kinh phí xây dựng nhà thờ Bác Trạch là: 58, 6 tỉ đồng. Vật liệu xây dựng nhà thờ Bác Trạch: 46 vạn gạch, 351 tấn sắt, 527 tấn vôi, 2.859 tấn xi măng, 15 m3 gỗ lim, 1000 m2  đá các loại, khoảng 1000 m2 sơn trong ngoài, 122 tấm kính tranh; gần 100 tượng tròn, phù điêu, tranh vẽ các loại. 
2 tháp chuông treo bộ chuông gồm 6 quả. Trong đó, quả chuông lớn nhất có trọng lượng là 3 tấn. 
Đồng hồ treo ở tiền sảnh nhà thờ có đường kính 4 m.
Nhà thờ có gần 100 bức tượng, phù điều và tranh vẽ, cùng với hàng trăm bức tranh vẽ in trên kính; gần chục bộ cửa đại với những hình ảnh các thánh sống động và 100 bộ cửa trong kính ngoài chớp.
Ngoài sự đồ sộ, lộng lẫy, nguy nga nhà thờ Bác Trạch được trang trí với những đường nét hoa văn rất tỉ mỉ và cầu kì từ cánh hoa hay đường chỉ nhỏ nhất. | Báo Công Giáo







Với quy mô và tầm vóc của mình, nhà thờ Bác Trạch là một trong số những giáo đường lớn  nhất tại Việt Nam.
Nguồn tin: GP Thái Bình

Posted By Đỗ Lộc Sơn06:13

SUY NIỆM HẰNG NGÀY - NGÀY 31/3/2017

Filled under:

Tin Mừng Chúa Giê-su Kitô theo Thánh Gio-an (Ga 7: 1-2.10.25-30)
1 Sau đó, Đức Giê-su thường đi lại trong miền Ga-li-lê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền Giu-đê, vì người Do-thái tìm giết Người.2 Lễ Lều của người Do-thái gần tới,10 Tuy nhiên, khi anh em Người đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật25 Bấy giờ có những người ở Giê-ru-sa-lem nói: "Ông này không phải là người họ đang tìm giết đó sao?26 Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Đấng Ki-tô?27 Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả."28 Lúc giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su nói lớn tiếng rằng: "Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các ông, các ông không biết Người.29 Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi."30 Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến.

SUY NIỆM 1

Chính xác Đức Ki-tô là ai? Đối với người đương thời, người ta biết rõ lý lịch của Đức Ki-tô: Người là con bác thợ mộc ở Nadarét. Còn Đấng Mêsia mà họ đang trông đợi, thì không ai biết Người xuất thân từ đâu cả nếu Người đến, hoặc Người sẽ ngự đến từ đám mây trên bầu trời theo Danien 7,13. Mặc dầu Chúa Giêsu đã biểu lộ những dấu chỉ rất rõ ràng, ấn tượng; Người giảng dạy  bởi quyền năng và bởi sự thông hiểu Thánh Kinh, đến nỗi người ta qúa đỗi sửng sốt và không thể hiểu tại sao thế được, bởi Người chỉ là con của bác thợ mộc tầm thường. Còn Đấng Mêsia mà họ trông chờ phải là một Đấng mạnh mẽ hơn, quyền lực hơn, Đấng đó sẽ dẹp tan quân thù, và phá tan những kẻ chống lại dân Ítraen.

Ý kiến về con người Đức Ki-tô ngày nay cũng không khác gì người đương thời. Nhiều cuốn sách đã viết về Đức Ki-tô và đã xé nát hình ảnh đích thật của Người. Tư tưởng mong chờ của chúng ta đôi khi cũng không khác gì tư tưởng của dân Do thái xưa. Chúng ta mong muốn Thiên Chúa phải biểu lộ ý muốn của Người cách mạnh mẽ hơn. Tại sao Người lại im lặng trước những bất công xảy ra trên trái đất? Chúng ta có thể tin vào Thiên Chúa, Đấng quyền năng, như thế nào khi chúng ta đối diện với qúa nhiều vấn đề, càng ngày càng gay gắt trong cuộc sống chúng ta?

Chúng ta biết nhiều về môi trường nơi Đức Ki-tô sống, tiếp xúc, về những người thân thuộc, bạn hữu và kẻ thù của Chúa. Trong những thập niên của cuối thế kỷ 20 và những năm đều thế kỷ 21 người ta càng hiểu rõ hơn về hoàn cảnh, môi trường nơi Đức Ki-tô sinh sống qua những nghiên cứu khoa học dựa vào khao khảo cổ. Thế nhưng Đức Ki-tô đích thật là ai, thì không ai nhận ra Người, những người chỉ đánh giá về Đức Ki-tô dựa vào yếu tố bên ngoài, với sự hiểu biết giới hạn. Đức Ki-tô là ai, thì chỉ có những ai cảm nhận được Người, đứng gần bên Người mới có thể đưa ra câu trả lời. Có nghĩa là, những ai tín thác vào Chúa Giêsu và thi hành những gì Người dạy bảo. Nhờ đó người ta mới có thể  nhận ra lời của Chúa Giêsu rất là hợp thời và hữu ích, và lời đó dẫn đưa tới sự sống đích thật. Sự tín thác cậy trông vững bền vào Đức Ki-tô không cần những dấu chỉ lớn lao, uy quyền như đã được thể hiện vào thời gian Người sinh sống. Thật vậy chính Lời của Người mở ra cho chúng ta con đường dẫn đưa tới điều mà Thiên Chúa đang làm sáng tỏ cho chúng ta trong thời đại của chúng ta. Đồng thời lời Chúa làm cho chúng ta chú ý tới điều mà con người đang cần nơi chúng ta.

Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng thật,xin chiếu giãi trên chúng ocn ánh sáng của Chúa, để chúng con nhận ra dung mạo đích thật của Chúa, để chúng con ở lại với Chúa và để chúng con đem Chúa đến cho nhân loại, một nhân loại đang khắc khoải hạnh phúc, một nhân loại đang khổ đau vì những bất công, một nhân loại đang thất vọng vì hận thù. 


GKGĐ Giáo Phận Phú Cường



 SUY NIỆM 2
  1. “Tin” điều không “thấy”
Những người đương thời của Đức Giê-su chờ đợi một Đấng Ki-tô mà họ không biết xuất thân từ đâu, có nghĩa là từ trên trời rơi xuống, không có cha, không có mẹ, không dòng họ, không quê hương dân tộc chi cả. Họ muốn có một Đức Kitô “từ trời xuống”!
Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả.
(c. 27)
Đúng là Đức Kitô xuất phát từ Thiên Chúa, như Ngài nói: “Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ Người mà đến, và chính Người đã sai tôi”, và như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngài đã từ trời xuống thế”. Nhưng không ai “thấy” được Đức Ki-tô từ trời xuống, từ Thiên Chúa mà đến, tất cả mọi người xưa cũng như nay được mời gọi “tin” thôi, chúng ta tin điều chúng ta không thấy, đơn giản là vì là đối tượng của lòng tin, thì không thể thấy được. Như khi chúng ta không thể thấy hết một ngôi vị con người, và mãi mãi không thể thấy hết, nhưng chúng ta vẫn tin, vẫn chọn, vẫn mến, vẫn yêu. Bởi lẽ, một ngôi vị không thể giản lược vào những gì được thể hiện và càng không thể giản lược vào những gì người khác biết.
Như những người đương thời của Đức Giê-su, chúng ta “thấy”, nghĩa là biết một cách khách quan, Đức Giê-su được sinh ra và lớn lên trong một gia đình và một dân tộc, nhưng mọi người được mời gọi tin rằng Người là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa. Và niềm tin này không phải là cả tin hay tin mù quáng, vì niềm tin này đến từ kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô như các môn đệ xưa, nhất là môn đệ Gioan: Ngài là Đức Giê-su Nazareth, nhưng chúng ta nghe và cảm nếm Lời của Ngài, ngôi vị của Ngài như là Lương Thực hằng sống, là Sự Sống, là Ánh Sáng, là Sự Thật và là Đường Đi dẫn đưa về Thiên Chúa cội nguồn và cùng đích của mọi sự.

  1. Thập Giá dẫn đến lòng tin
Bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, ở câu đầu và câu cuối, được đánh dấu thật rõ bởi mầu nhiệm Thập Giá:
Sau đó, Đức Giê-su thường đi lại trong miền Ga-li-lê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền Giu-đê, vì người Do-thái tìm giết Người.
(c. 1)
Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến.
(c. 30)
Vì thế, chúng ta được mời gọi đọc hiểu bài Tin Mừng dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan với lòng tin: “Thập Giá làm cho tin”, như Pascal nói. Thật vậy, những người đương thời, và con người thuộc mọi thời đại, trong đó có chúng ta hôm nay, chỉ thấy “Đức Kitô chịu đóng đinh trên thập giá”, bởi vì Người đã thực sự bị bắt, bị kết án và bị hành hình; và thập giá trên đó Người bị đóng đinh, hiện hiện và được giương cao ở khắp nơi và trong mọi thời. Thấy thập giá Đức Kitô, nghĩa là chúng ta sẽ thấy sự sỉ nhục và điên rồ, nhưng chúng ta lại tin, như thánh Phaolô nói, đó là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta tin Đức Giêsu chịu đóng đinh là Con Thiên Chúa, là Khuôn Mặt đích thật của Thiên Chúa, và là chính Sự Sống của Thiên Chúa. Bởi vì, Thập Giá, chính là lời diễn tả tình yêu thương xót nhưng không và vô biên của Thiên Chúa.
Chính vì thế, trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su dạy, chứ không phải báo trước, các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (x. Mc 8, 31). Vậy, chúng ta hãy nhìn lên Đức Ki-tô chịu đóng đinh, để nhìn thấy:
  • Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
  • Đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị.
  • Chân tay của Người bị đanh đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính.
  • Và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt (x. Dụ ngôn “Những tá điền sát nhân”). Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!
Vì thế, khi nhìn lên Thập Giá Đức Ki-tô, chúng ta được mời gọi nghiệm ra tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu có thể chịu đựng mọi tội lỗi của con người đến như thế. Nghi ngờ Thiên Chúa là nọc độc của Con Rắn đã gieo vào lòng con người ngay từ nguồn gốc sự sống (St 3, 1-7; và Ds 21, 4-9), nhưng được chữa lành tận căn bằng Thập Giá, bởi vì thập giá diễn tả tình yêu đến cùng Thiên Chúa.

  1. Đức tin và sự sống
Tin điều không thấy, đó cũng chính là cách sống đức tin hôm nay: thay vì đòi thấy những điều lạ lùng mới chịu tin, thay vì chạy theo những điều ngoại thường, những phép lạ, chúng ta được mời gọi khám phá ra:
  • Những điều lạ lùng ngay trong những điều bình thường của ngày sống.
  • Những ơn huệ nơi những gì chúng ta là và chúng ta nhận được trong cuộc đời và từng ngày sống.
  • Sự hiện diện của Chúa, kín đáo nhưng rất mạnh mẽ, nơi các biến cố trong cuộc đời.
  • Cách Chúa dẫn đưa trong hành trình cuộc đời và ơn gọi của chúng ta, ngang qua những khó khăn, thách đố, mất mát thua thiệt.
Nếu chúng ta không tin Thiên Chúa hằng sống mạnh hơn sự chết, như người Do Thái xưa và như bài đọc 1 trích sách Khôn Ngoan nói, tất yếu chúng ta sẽ bị Sự Dữ gieo nọc độc quên ơn, nghi ngờ, ham muốn, ghen tị và đẩy tới những hành động của bóng tối sự chết.
Ta hãy coi những lời nó nói có thật không,
và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào…
Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã,
vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.
(Kn 2, 17-20)
Lời nhạo báng này còn có một tầm mức nghiêm trọng hơn: dùng ngôn ngữ đức tin: “Thiên Chúa viếng thăm”, nhưng hoàn toàn không có đức tin. Đó là thứ ngôn ngữ trống rỗng, biểu hiện sự trống rỗng chết chóc nơi nội tâm của con người. Như thế, những lời nhạo báng mà chúng ta nghe chất đầy những hiểm họa.
Thực vậy, từ chối tin sẽ khởi động cách nhanh chóng một tiến trình tăng tốc của sự chết: người không tin vào sự sống sẽ đòi hỏi những bằng chứng về sự sống và, từ đó rất nhanh đi đến chỗ tự mình đưa ra những bằng chứng về điều trái ngược với sự sống. Người nào không tin vào sự sống, thì chẳng mấy chốc người ta sẽ đưa ra những bằng chứng của sự chết, đó là cung cánh sống, những hành động và rốt cục là chính bản thân người đó hướng về sự chết, và thuộc về sự chết (Kn 1, 16 – 2, 24).

* * *
Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô mà chúng ta sẽ chiêm ngắm trong Tuần Thánh sẽ làm sáng tỏ và giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

Posted By Đỗ Lộc Sơn05:57

Thiên Chúa khóc thương khi chúng ta quay lưng lại tình yêu của Ngài

Filled under:

Chúng ta thử nghĩ mà xem, khi chúng ta theo đuổi những thần tượng giả dối, thì chỉ có Thiên Chúa là Cha yêu thương và chờ đợi chúng ta. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.
PopeFrancis-30Mar2017-01.jpg

Con người luôn bị cám dỗ sống bất trung

Trong bài đọc trích sách Xuất Hành, khi Mose lên núi để gặp Thiên Chúa, dân chúng không đủ kiên nhẫn. 40 ngày là quá lâu đối với họ. Khi Mose xuống núi, dân chúng đã đúc một con bê vàng để thờ. Dân chúng lãng quên Thiên Chúa, Đấng cứu họ. Bởi thế, ngôn sứ Baruc có nói: Chúng đã lãng quên Đấng dẫn đưa chúng.

Quên đi Thiên Chúa, Đấng tạo nên đất trời, Đấng làm cho muôn vật sinh trưởng, Đấng đồng hành trong cuộc sống chúng ta. Khi quên đi như thế, chúng ta rơi vào ảo tưởng. Nhiều lần trong các dụ ngôn, Chúa Giêsu kể về người chủ giao vườn nho cho người làm công chăm sóc, nhưng rồi thất bại, vì các tá điền muốn chiếm đoạt vườn nho. Trong trái tim con người luôn có cám dỗ ấy, luôn có sự bất an ấy. Con người không hài lòng với tình yêu trung thành đặt nơi Thiên Chúa. Trái tim con người luôn có xu hướng bị đưa đẩy tới chỗ không chung thủy.

Thiên Chúa buồn lòng khi con người bất trung

Có ngôn sứ đã trách rằng: đây là một dân không biết kiên trì, không thể chờ đợi, một dân đã ra hư hỏng, vì chúng rời xa Thiên Chúa chân thật mà chạy theo các thần tượng giả dối.

Và như thế, đứng trước sự bất trung của dân, Thiên Chúa buồn lòng và thất vọng… Chúng ta hôm nay cũng là dân của Chúa. Chúng ta biết rất rõ điều gì đang diễn ra trong trái tim mình. Và chúng ta phải lên đường trở về; để không bị trượt dài, không bị lôi cuốn, không chạy theo các thần tượng giả trá của thế gian, không bị lún dần vào con đường bất trung. Hôm nay thật là tốt để nghĩ về sự nỗi buồn của Thiên Chúa. Bản thân mỗi người thử hỏi Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin nói cho con biết, Chúa có buồn về con không, có thất vọng về con không?”. Trong chừng mừng nào đó, có thể Chúa sẽ nói là có. Nhưng hãy cứ nghĩ và hỏi Chúa câu hỏi ấy.

Con có đang xa cách Chúa không?

Thiên Chúa là người Cha nhân hiền với trái tim nhân hậu. Chúng ta hãy nhớ về cảnh Chúa Giêsu khóc thương thành Giêrusalem. Và chúng ta tự hỏi: Chúa có đang khóc vì tôi không? Chúa có đang buồn vì tôi không? Tôi có đang chạy theo các thần tượng giả mà sống xa cách Chúa không? Nếu chúng ta đang làm nô lệ cho các ngẫu tượng giả dối, thì Thiên Chúa đang khóc thương cho ta.

Hôm nay chúng ta nghĩ về nỗi buồn của Thiên Chúa. Ngài buồn, vì dù Ngài yêu mến chúng ta, dù Ngài kiếm tìm tình yêu, mà chúng ta không đáp lại, mà chúng ta không yêu mến Ngài. Chúng ta chạy xa Thiên Chúa, Đấng tác thành chúng ta. Chúng ta nên nghĩ về điều ấy trong Mùa Chay này. Điều ấy giúp ích cho chúng ta. Đó là điều chúng ta nên làm hằng ngày khi xét mình hồi tâm. Chúng ta thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã có rất nhiều ước mơ dành cho con, nhưng con lại rời xa Ngài, xin nói cho con biết ở đâu và cách nào để con bắt đầu con đường trở về…” Điều luôn làm cho ta ngạc nhiên, là Ngài luôn đợi chờ chúng ta, như người cha nhân hậu đợi chờ đứa con hoang đàng trở về. Khi đứa con trở về, người cha đã đợi chờ anh từ lâu và nhìn thấy anh ngay từ đàng xa.





 ĐGH nói rằng hãy từ bỏ “ánh sáng giả tạo”dẫn đến con đường sai lầm.

(EWTN News/CNA) Trong Thánh Lễ Chúa Nhật 26 thánh Ba, ĐGH Phanxicô đã nói với khách hành hương rằng Mùa Chay là thời gian quan trọng để mở lòng đón nhận ánh sánh của Chúa Kitô và dứt bỏ “ ánh sáng giả tạo” làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, dẫn chúng ta vào con đường tăm tối bắt nguồn từ tính ích kỷ của chính mình.

ĐGH xin mọi người hãy tự trả lời trong thinh lặng những câu hỏi mà ngài đặt ra hôm ấy như “Con có tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa không? Có tin rằng Chúa có thể biến đổi con tim của con không? Có nghĩ rằng con có thể nhìn thấy thực tế như Chúa thấy, không phải như người khác không? Con có tin Chúa là ánh sáng và ngài ban cho chúng ta ánh sáng thật không?

Đi theo ánh sáng của Chúa Kitô nghĩa là biến đổi và việc biến đổi này có nghĩa là “từ bỏ ánh sáng giả tạo.”

ĐGH nói rằng một trong những ánh sáng giả là thành kiến kỳ quặc và lạnh lùng đối với người khác, bởi vì định kiến như thế bóp méo sự thật và tạo nên lòng hận thù đối với những ai mà chúng ta xét đoán không chút xót thương và lên án mà không hề xét xử.

Ngồi lê mách lẻo cũng là loại tật này, nói xấu người khác làm ta lạc xa ánh sáng và dẫn ta vào con đường tối tăm.

Một loại ánh sáng giả khác nữa là “quyến rũ và mơ hồ vì lợi ích cá nhân.”

Nếu chúng ta đánh giá một người dựa trên những tiêu chuẩn vì lợi ích của mình, vì niềm vui, vì uy tín thì chúng ta không sống ánh sáng thật trong các mối liên hệ và trong các tình huống. Nếu chúng ta bước xuống con đường này để tìm lợi ích cá nhân thì chúng ta sẽ chìm sâu vào trong bóng tối.

Trong buổi đọc kinh truyền tin tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào hôm Chúa Nhật, ĐGH đã nhắc đến đoạn Phúa Âm của Thánh Gioan kể lại việc Chúa chữa lành cho một người mù từ thuở mới sinh. Sau khi được nhìn thấy, người này đã nhận ra Giêsu là Con Thiên Chúa và thờ lạy Ngài.

Với phép lạ này Chúa Giêsu đã tỏ mình là ánh sáng thế gian. Người mù là hình ảnh của chúng ta, bị mù bởi tội lỗi “cần ánh sáng mới, ánh sáng đức tin, ánh sáng thật mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Chính việc “mở ra mầu nhiệm về Chúa Kitô” mà người mù được nhìn thấy.

ĐGH nhấn mạnh đến đoạn Chúa Giêsu hỏi người mù “Anh có tin vào Con Người không? và rằng “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.”

Thế là người mù liền sấp mình và thờ lạy Chúa Giêsu. Câu chuyện này là lời mời gọi phản ánh niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô và nhớ lại giây phút chúng ta được lãnh phép Rửa Tội.

Rửa tội là “bí tích đầu tiên của đức tin, dẫn chúng ta “đến với ánh sáng” qua việc tái sinh trong nước và trong Chúa Thánh Thần. Cũng thế, tin theo lời dạy của Chúa Giêsu, mắt người mù được mở ra sau khi đi rửa tại hồ Si-lô-ắc.

Nhu cầu chữa lành và tái sinh là một dấu hiệu của mọi thời đại một khi chúng ta không nhận ra rằng “Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian” khi chúng ta lạc lối trong tối tăm chúng ta sẽ tìm kiếm và bước theo nguồn sáng dù rất nhỏ.

Vấn đề ở đây là người mù không có tên, điều ấy giúp chúng ta sẽ tìm thấy chính mình, khuôn mặt mình và tên của mình trong lịch sự của thời đại ấy.

Chúng ta cũng được chiếu sáng bởi Chúa Kitô qua phép Rửa Tội, giống như người mù, chúng ta được kêu gọi để sống như “con cái của ánh sáng.”

Nhưng để làm được như thế đòi hỏi một sư thay đổi căn bản về tinh thần, về khả năng xét đoán tha nhân và về nhiều thứ theo một tiêu chuẩn giá trị mới đến từ Thiên Chúa. Chính Phép Rửa Tội đòi hỏi một “sự chọn lựa vững chắc và quyết tâm” loại bỏ ánh sáng giả và sống như con cái ánh sáng thật của Chúa Kitô.

Kết thúc buổi cầu nguyện ĐGH đã cầu xin cùng Mẹ Maria, người đã đón nhận Chúa Giêsu là “ ánh sáng thế gian”. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta để được ơn đón nhận “ánh sáng đức tin” vào trong đời sống, nhất là trong Mùa Chay này.

“Xin cho ánh sáng mới này biến đổi chúng con trong thái độ và hành động, để chúng con, dù trong cảnh khốn nghèo, cũng có thể trở thành những tia sáng của Chúa Kitô”.

Giuse Thẩm Nguyễn
   (Tứ quyết SJ,  RadioVaticana 30.03.2017)

Posted By Đỗ Lộc Sơn05:50

5 Phút cho Lời Chúa 31/3/2017

Filled under:

“XIN CHO CON BIẾT CHÚA”
“Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư ?” (Ga 7,28)
Suy niệm: Từ chìa khóa trong đoạn Tin Mừng này là động từ “biết” được lặp lại cả thảy sáu lần. Trong Thánh Kinh, động từ biết vừa có nghĩa là hiểu biết, nhận thức của lý trí, đồng thời, còn có nghĩa là kết hiệp, thông hiệp nên một, như đôi vợ chồng “biết” nhau đến mức “mình với ta tuy hai mà một,” như khi nói “A-đam biết E-va vợ mình, và bà mang thai” (Kn 4,1). Những người biệt phái, luật sĩ tưởng mình biết Đức Ki-tô, nhưng sự hiểu biết của họ hạn hẹp ở nghĩa thông thường, chưa kể là họ biết sai về Chúa nữa. Chúa Giê-su nhắm đến nghĩa sâu xa của sự hiểu biết khi nói: “Tôi, tôi biết Chúa Cha, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi” (c. 29).
Mời Bạn: Chúng ta có khi tự hào rằng mình đã biết Chúa nhiều; trong khi thật ra, sự hiểu biết của chúng ta về Chúa còn hời hợt, nông cạn, và có khi hiểu sai nữa là đàng khác nữa. Mùa Chay là “nhịp mạnh” của đời Ki-tô hữu để ta đào sâu hơn sự hiểu biết Chúa, từ lý trí đến ý chí: từ nhận biết đến yêu mến, và để ta kết hiệp nên một với Chúa bằng một tình yêu nồng nàn hơn, cao độ hơn
Chia sẻ: Bạn đã làm gì để tìm hiểu về giáo lý, Thánh Kinh và những kiến thức đó giúp bạn hoán cải cuộc sống thế nào?
Sống Lời Chúa: Để biết Chúa hơn, mến Chúa hơn, hôm nay tôi nghe, đọc, suy niệm Lời Chúa và kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể với sự chú ý cầm trí và tâm tình sốt sắng.
Cầu nguyện: “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con. Biết Chúa để con yêu mến Chúa...” (Th. Âu-tinh). Xin cho sự hiểu biết đưa con đến chỗ yêu mến, gắn bó với Chúa nhiều hơn, nhất là trong Tuần Thương Khó sắp đến. Amen.


 THÁNH GUIĐÔ
TU VIỆN TRƯỞNG
(+1046)
Casêma một làng quê nhỏ bé thuộc tỉnh Ravenna bên Ý, là nơi đây Guiđô đã chào đời. Sinh ra trong gia đình đạo hạnh, Guiđô được lãnh nhận một nền giáo dục rất chu đáo; nền giáo dục đó đã tạo cho cậu một tư cách nết na nhu mì và một tâm hồn yêu thích làm điều thiện.
Ngay từ buổi thiếu thời, người ta đã thấy cậu rất chăm chỉ học hành, có một trí nhớ dẻo dai, nhưng nhất là có tính tình chín chắn không khác chi một người đã đứng tuổi. Nhưng cậu lại có khuyết điểm là thích ăn mặc chải chuốt và thích làm đỏm để được người ta chú ý. Nhưng rồi với ơn Chúa tác động, cậu nhìn nhận đó là một khuyết điểm và quyết định từ bỏ cái tính háo danh giả trá đó. Để thực hiện ý chí cương quyết ấy cậu đã đi dự lễ thánh Apolinariô tại Ravenna với bộ đồ rách rưới và bẩn thỉu, còn áo quý của mình thì cởi cho người nghèo khó hết. Vẫn giữ bộ quần áo "tang thương" đó, Guiđôâ còn ngang nhiên đi Rôma viếng mộ các thánh Tông đồ. Và với ý chí tận hiến cuộc đời cho Chúa, Guiđôâ đã xin chịu chức cắt tóc gia nhập hàng giáo sĩ mà không cho cha mẹ hay biết chút nào. Cậu còn định tâm sẽ đi viếng Đất Thánh và không trở về quê hương nữa.
Đang lúc ôm ấp hoài vọng tốt đẹp kia, Thiên Chúa lại muốn cho người thanh niên có thiện chí ấy đến với Người bằng một đường lối khác. Người muốn cho Guiđôâ trở về Ravenna ngay để hấp thụ giáo huấn của một vị ẩn tu thánh thiện và đầy kinh nghiệm đang sống trên một cù lao nhỏ giữa giòng sông Pô. Vị ẩn tu đó chính là Mactinô, người đang gián tiếp coi sóc tu viện Pompose. Sau ba năm tập luyện và thực hành đức vâng lời, Guiđôâ được vị ẩn tu đưa về tu viện giới thiệu với các tu sĩ và cho mặc áo dòng. Nhờ những công trình tập luyện trước Guiđôâ làm quen được với nếp sống khắc khổ và đạo đức của tu viện một cách dễ dàng.
Chưa được bao lâu tiếng nhân đức của thầy Guiđôâ đã vang đồn khắp nơi trong dòng đến nỗi tuy còn trẻ tuổi, thầy cũng đã được ủy thác trông coi tu viện thánh Sêvêriô ở Ravenna. Dù đổi nơi đổi nhà, ở đâu thầy cũng vẫn tỏ ra hết lòng mến Chúa và bác ái đối với anh em.
Đã đến lúc Thiên Chúa muốn dùng người tôi tớ trung thành để đảm đang những công việc trọng đại. Vào năm 998, tu viện trưởng Mactinô và cả cha phụ tá cùng tạ thế, mọi người trong dòng đều đồng thanh bầu thầy Guiđô làm tu viện trưởng Pômposa. Thầy khiêm nhường lãnh nhận trọng trách Chúa gửi đến và nỗ lực chu toàn sứ mệnh để đem lại cho tu viện những ngày sống hưng thịnh và sốt sắng.
Nhân đức vị tu viện trưởng mới vang lừng khắp nơi, thu hút một số đông những người đến xin thụ giáo. Tu viện không còn đủ sức chứa, cha bề trên phải vội xây cất thêm nhà. Công việc thật bề bộn, phần thì thiếu tiền của, phần thì ngài còn "chân ướt chân ráo" đã phải lo những công việc lớn lao, song ngài hoàn toàn phó thác và tin tưởng ở Chúa quan phòng. Trong dịp này lời cầu nguyện của ngài tỏ ra thế lực lạ lùng đến nỗi cứu sống được bọn thợ xây bị đè bẹp dưới đống gạch vụn vì một bức tường bỗng đổ xuống; lần khác trong lúc kho hết sạch cả lương thực và quỹ không còn một xu để trả công thợ, bỗng nhiên Chúa quan phòng gửi đến cho ngài hai thuyền chở đầy lúa và rượu.
Công việc xây cất hoàn tất, ngài liền trao quyền tạm cho mấy tu sĩ khôn ngoan thay ngài lãnh đạo tu viện; còn ngài lại muốn được rảnh tâm chăm lo phụng sự Chúa hơn hầu lãnh nhận thêm nhiều nghị lực mới. Theo gương cựu tu viện trưởng Mactinô, ngài ẩn mình một thời gian khá lâu trong nơi xa vắng để hoàn toàn thanh thản trong sự chiêm niệm và sống khắc khổ.
Khi đã dư dật của ăn tinh thần, ngài trở về tu viện hăng hái hoạt động không còn biết mỏi mệt. Càng nghiêm khắc với bản thân bao nhiêu ngài càng hiền từ và bác ái với các tu sĩ bấy nhiêu, vì thế hết mọi người đều yêu mến ngài như cha vậy.
Tuy người tôi tớ Chúa đã sống cuộc đời thánh thiện và đức hạnh phi thường, song Chúa còn muốn tinh luyện nhân đức ngài bằng một cơn thử thách vĩ đại làm chấn động cả tu viện. Ma quỷ thấy ngài hăng hái hoạt động tông đồ, liền xui khiến nhiều người bá cáo lên Đức Tổng Giám mục Ravenna, những điều xấu xa không thể có nơi ngài. Đức Tổng Giám mục tin lời và muốn bắt chính các tu sĩ trong tu viện phải trục xuất bề trên Guiđôâ khỏi tu viện.
Tin bất ngờ đó làm cho cả nhà hồi hộp lo sợ. Toàn thể tu sĩ sốt sắng gia tăng lời cầu nguyện và hãm mình ăn chay phạt xác, để xin Chúa rủ lòng thương ngăn cản cơn khốn khó sắp đổ xuống trên tu viện. Chúa đã nhận lời cầu nguyện tha thiết của những tâm hồn đầy tin tưởng: chính ngày Đức Tổng Giám mục thân hành đến tu viện để truất chức tu viện trưởng Guiđôâ, ngài mới hay mình đã bị người ta lừa dối, lập tức ngài đổi lòng và hứa sẽ bênh vực tu viện trưởng và bảo trợ cả nhà dòng.
Tu viện trưởng Guiđôâ luôn luôn tỏ ra sáng suốt và hoạt động không ngừng trong việc điều khiển tu viện Pompose. Thấm thoát đã được 48 năm, bỗng có lệnh vua Henricô III triệu ngài về Placentia, ngài vâng lệnh ra đi. Đường dài sức yếu, càng đi ngài càng cảm thấy kiệt sức. Nhưng ngài vẫn gượng đi tới ấp thánh Domnin, tới đây ngài trút hơi thở cuối cùng để về chầu Chúa ngày 31.03.1046. Mọi người được chứng kiến sự lạ lùng khi một người mù chạm tới xác thánh nhân liền được sáng. Tin lạ ấy truyền đi nhanh chóng và người ta lũ lượt kéo đến kính viếng xác thánh nhân. Dân tỉnh Parma muốn được mai táng xác thánh nhân ngay ở tỉnh mình vì ngài đã từ trần tại đó; nhưng vua Henricô III truyền đem di hài đấng thánh về tỉnh Spirê bên Đức và an táng tại giáo đường thánh Gioan Tẩy giả sau được cải tên là nhà thờ thánh Guiđôâ.
Đèn sáng không ai đem để dưới thùng, vì thế Giáo hội đã muốn truy phong ngài lên bậc hiển thánh để treo cao gương sáng đời của một người đã tận tụy với nghĩa vụ: điều khiển tu viện và dẫn dắt những tâm hồn thiện chí trên con đường thánh thiện. 


Chọn Lựa

Ðời người là một chuỗi những chọn lựa và quyết định. Có những quyết định liên quan đến người khác. Có những chọn lựa thay đổi cả một đời người. Có lẽ quyết định nào cũng làm cho chúng ta ray rứt, dằn vặt.
Một chủ nông trại nọ thuê một người thanh niên đến nhặt khoai tây cho nông trại: Công việc xem ra thật đơn giản: chỉ cần phân loại các loại củ khoai tây và cho vào sọt. Lớn theo lớn, trung bình theo trung bình và nhỏ theo nhỏ... Sau một ngày làm việc, người thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc: gương mặt của anh trông hốc hác và thất sắc hẳn. Ðược hỏi lý do, anh giải thích như sau:: "Công việc của ông giao phó không phải là một công việc nặng nhọc, nhưng điều làm cho tôi nhức óc đó là phải chọn lựa".
Chọn lựa và quyết định là cả một gánh nặng đối với con người, bởi vì không ai có thể làm điều đó thay thế cho chúng ta cả. Chúng ta cần người khác chỉ bảo, chúng ta cần người khác góp ý, nhưng quyết định vẫn là phần của chúng tạ
Thú vật dường như không có chọn lựa vàquyết định. Tất cả đều được điều khiển bởi cái mà chúng ta gọi là bản năng. Con chim có trhể làm được một cái tổ vô cùng tinh vi mà không cần phải học hỏi, cũng như không sợ phải sai lầm. Trong khi đó thì khả năng tưởng chừng như vô song, con người vẫn cứ phải rơi vào lầm lẫn này đến lầm lẫn nọ.
Lầm lẫn, nghi ngờ, bất an, vô định là số phận của con người. Ðiều đó làm cho con người day dứt, khổ đau, nhưng đồng thời cũng nói lên giá trị cao cả của con người. Chính vì những giới hạn bất toàn của con người, mà con người càng cảm nhận được sự trợ giúp của Thiên Chúa.... Khi nhìn ngắm vũ trụ bao la, khi nhìn lại thân phận bé nhỏ yếu hèn của mình, tác giả Thánh Vịnh thứ 8 đã phải thốt lên: "Lạy Chúa, con người là chi màChúa phải bận tâm?".
Bé nhỏ trong vũ trụ, bất toàn và giới hạn giữa muôn tạo vật, nhưng con người không phải là một con số vô danh. Dưới ánh mắt yêu thương và hằng quan tâm của Thiên Chúa, mỗi một con người là một giá trị độc nhất vô nhị, là đối tượng của một tình yêu độc nhất.
Chúa Giêsu đã đến trong trần gian để nói với chúng ta điều đó: Hai con chim sẻ không đáng giá một hào, vậy mà không một con nào rơi xuống đất theo ý Cha cả, huống chi là con ngườị
Thiên Chúa đã yêu thương con người: đó là lý do khiến chúng ta phải luôn đặt tất cả tin tưởng vào Ngài.... Nhưng mò mẫm và lầm lỗi trong cuộc sống chỉ là những nẻo quanh co, nhưng cuối cùng rồi cũng sẽ đưa chúng ta đến thành công, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta và không ngừng dẫn dắt chúng tạ

Posted By Đỗ Lộc Sơn05:37

Thứ Năm, 30 tháng 3, 2017

Suy niệm Tin Mừng CN V Mùa chay- Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Filled under:

Chúa cho Lazaro sống lại (Jn11,1-45)

Bêtania ở phía đông núi Ôliu, cách Giêrusalem 3 cây số. Đây là nhà của ba chị em Matta, Maria và Lazarô. Với Chúa Giêsu, Bêtania trở thành một nơi rất quen thuộc. Chúa nhiều lần đã qua lại nơi đây sau những ngày rao giảng mệt nhọc, nhất là  sau khi cảm nếm  sự cứng lòng  của những người lãnh đạo Do Thái, khiến Người có cảm giác như bị thất bại  và ruồng bỏ. Tình bạn giữa Chúa Giêsu và những thành viên trong gia đình Bêtania thật là thắm thiết, đến nỗi khi Lazarô đau nặng, hai chị em đã cho người báo tin cho Chúa: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng” (Ga 11,3).
Lazarô đã chết, thế là Chúa Giêsu lên đường trở về Giuđêa, mặc dầu trước đó không lâu suýt nữa Chúa Giêsu đã bị ném đá. Điều đó cho thấy Chúa Giêsu đã thương mến ba chị em như thế nào. Rồi qua diễn tiến câu chuyện chúng ta càng thấy rõ tâm tình của Chúa Giêsu dành cho gia đình này.
Chúng ta nghe tiếp câu chuyện: khi nghe tin Chúa Giêsu đến với gia đình, Matta đã đi đón Người :”Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.
Sau đó bà về gọi Maria, em gái bà và nói với em rằng : “Thầy ở ngòai kia, Thầy gọi em”.
Maria đến gặp Chúa và cũng lặp lại lời của Matta:” Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con không chết”. Khi thấy bà khóc và những người Do Thái bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức, xúc động và đã rơi lệ.
Một cảnh tượng thật cảm động. Một cảnh tượng cho thấy Chúa Giêsu thực là một con người. Một con người với tất cả những gì là tự nhiên nhất của nó.
Chính ở đây cho chúng ta thấy : Một Thiên Chúa đã phản ứng như một con người. Phải, chúng ta có một Thiên Chúa, một Thiên Chúa rất gần với con người. Một Thiên Chúa sống giữa con người. Một Thiên Chúa biết chia sẻ những mất mát lớn lao của những người thân trong gia đình. Người đã rơi lệ.
Một Thiên Chúa biết rung cảm với một gia đình mà ở đó chỉ có ba chị em. Hai người chị và một đứa em trai. Bây giờ đứa em trai đã chết. Quả thật, một sự mất mát vô cùng lớn đối với hai người chị này.
Và làm sao an ủi được hai chị em này. Thế là Chúa đã khóc. Chúa đã rơi lệ. Những giọt nước mắt rơi xuống. Những giọt nước mắt của một con người, nhưng cũng là một Thiên Chúa.
Tất cả đều hé mở cho chúng ta một điều vô cùng quan trọng : Không có một tôn giáo nào lại có một vị thần minh ở với con người như Chúa Giêsu ở với chúng ta. Phải, một Thiên Chúa đã đến ở  với con cái lòai người. Và vị Thiên Chúa đó đã cảm nhận được những nỗi đau thương, những nỗi thống khổ cũng như những mất mát của con người.
Và một phép lạ đã xảy ra: Lazarô đã sống lại.
Sự sống lại của Lazarô muốn nói với chúng ta điều gì?
Dĩ nhiên sự sống lại của Lazrô nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng hé mở cho chúng ta về cuộc sống mai hậu.
Trong chúng ta không có ai có kinh nghiệm  về sự sống lại, nhưng mấy năm gần đây,
một số bác sĩ người Đức và  Mỹ đã chú ý  đến hiện tượng mà họ gọi là "kinh nghiệm cận tử" (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay vì một lý do gì đó làm họ ngất đi trong một thời gian khá lâu. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết, nhưng sau đó họ sống lại.
Các bác sĩ đã phỏng vấn 1.370 trường hợp.
Trong những điều họ thuật lại, có những điểm chung sau đây:
    - Họ không còn sợ chết nữa.
    - Cuộc sống ở "cõi bên kia" hạnh phúc hơn cuộc sống  ở đời này.
    -  Họ không còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa.
    Điều duy nhất  mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi     người.        
Kinh nghiệm của những người cận tử là họ không còn sợ chết nữa, nhưng ai trong chúng ta vẫn sợ hãi khi cái chết đến với chúng ta.
Một câu chuyện kể rằng:
Có người kia rất giầu sang phú qúi. Một hôm, ông tìm đến hang đá của vị ẩn tu nổi tiếng là thánh thiện và được đặc ân có đường dây liên hệ trực tiếp với Chúa.
Người phú hộ xin vị ẩn tu cầu nguyện cho mình và hỏi Chúa xem sau khi chết ông có được vào  thiên đàng hay không.
Lời thỉnh xin của người phú hộ xem ra hơi khác thường, nhưng vì người ấy cứ nài nỉ, nên vị ẩn tu chấp nhận sẽ cầu nguyện với Chúa cho ông, với điều kiện là cho thêm ít hôm để cầu nguyện với Chúa. 
Một tuần lễ sau, nhà phú hộ trở lại với vị ẩn tu  để được nghe lời Chúa muốn nói với ông. Vị ẩn tu nói :
 - Tôi đã được Chúa cho biết điều ông mong ước cầu xin. Nhưng có một tin vui và một tin buồn, vậy ông muốn nghe điều nào trước ? Tin vui hay tin buồn ?
Nhà phú hộ phân vân suy nghĩ một lúc. Sau đó chọn xin cho biết tin vui trước.
Vị ẩn tu đáp :
 - Tin vui là ông sẽ được rỗi linh hồn và sẽ được lên thiên đàng.
Nghe vậy, nhà phú hộ vui mừng thích chí lắm và tự nhủ:”Ngoài tin vui mừng lớn lao này, trên đời này còn gì phải là tin buồn nữa”.  
Như bị tính tò mò thôi thúc, nhà phú hộ hỏi thêm cho biết :
 - Tin buồn là gì ? 
Vị ẩn tu đáp : Có lẽ tin buồn mà ông không muốn nghe nói tới, đó là ông sẽ phải chết ngay hôm nay. 
Bình thường thì ai cũng sợ chết, nhưng với kinh nghiệm của những người cận tử đã cho chúng ta thấy :
    - Họ không còn sợ chết nữa.
    - Cuộc sống ở "cõi bên kia" hạnh phúc hơn cuộc sống  ở đời này.
    -  Họ không còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa.
    Điều duy nhất  mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người Những điều nghiên cứu trên đây thật là một điều quí giá cho chúng ta. Nếu ai trên trần thế này cũng sống  như kinh nghiệm của những người "cận tử" thì chúng ta thấy quả  là thiên đàng đã xuất hiện ngay trên trần gian này rồi. Amen.  

***********************************************************************
  Suy Niệm Chúa Nhật V Mùa Chay – Năm A, Lm Anton Trung Thành 
Bệnh tật, chết chóc là những nỗi khổ của con người. Nhưng có khi qua bệnh tật, chết chóc con người lại nhận được những bài học có giá trị cho cuộc sống. Chúng ta có thể thấy được điều này qua “sự cố” của ông Ladarô mà câu chuyện Tin Mừng hôm nay kể lại.
1. Bài học thứ nhất: Sự liên đới và quan tâm giúp đỡ
Đó chính là tình liên đới giữa Đức Giêsu với ba chị em Martha, Maria và Ladarô: Xét về phạm vi tự nhiên, giữa Đức Giêsu và ba chị em của Martha có một mối tương quan tình bạn gần gũi, thân thiện và trong sạch. Hiện diện với nhau khi vui, có mặt với nhau khi buồn, đồng cảm với nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong một xã hội mà con người dễ bị cám dỗ sống dửng dưng với nhau như hôm nay, thì tình liên đới tốt đẹp giữa Đức Giêsu với ba chị em nhà Martha là mẫu gương cho mỗi người chúng ta noi theo. Đó là tình liên đới giữa các thành viên trong gia đình: Khi biết Ladarô bị bệnh, hai chị em Martha và Maria đã cho người nhắn tin cho Đức Giêsu: “Người Thầy yêu đau nặng” (Ga 11,3). Việc làm này thể hiện sự quan tâm của Martha, Maria đối với em là Ladarô. Trong cuộc sống, chúng ta cần có sự liên đới giúp đỡ nhau, nhất là giữa những người thân thuộc trong gia đình. Khi một ai đó trong gia đình bị bệnh, những thành viên khác cần quan tâm giúp đỡ, nhất là tìm thầy chạy thuốc, để người ốm đau được khám chữa bệnh một cách chu đáo hầu mong chóng khỏe lại.
2. Bài học thứ hai: Làm Sáng Danh Chúa
Trong bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, khi các môn đệ hỏi Đức Giêsu về trường hợp anh mù từ khi mới sinh. “Anh ta bị mù là do tội anh ta hay do tội của cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 3). Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, khi Martha và Maria sai người đến báo tin cho Đức Giêsu biết “Người Thầy yêu đau nặng .” Đức Giêsu cũng trả lời rằng: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển” (Ga 11,4). Và sau đó, diễn biến của câu chuyện Tin Mừng thực sự đã làm sáng danh Thiên Chúa. Bởi vì, qua câu chuyện Tin mừng này niềm tin của các Tông đồ được cũng cố, chính Đức Giêsu đã nói: “Ladarô đã chết. Nhưng Thầy mừng cho các con, vì Thầy không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”(Ga 11,14). Không những niềm tin các Tông đồ được cũng cố mà niềm tin nơi các người hiện diện cũng được cũng cố. Chính Martha thưa với Đức Giêsu khi Ngài hỏi về niềm tin rằng: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian" (Ga 11, 27). Và nhiều người Do thái cũng đã tin vào Đức Giêsu khi chứng kiến phép lạ này (x. Ga 11,45).
3. Bài học thứ ba: Giúp mọi người hiện diện tin vào sự sống đời sau
Phép lạ Đức Giêsu cho ông Ladarô sống lại báo trước sự phục sinh của Ngài sau này, đồng thời hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng sống lại trong ngày sau hết như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy .”
Thật vậy, con người có hai sự sống: sự sống thể xác và sự sống linh hồn. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô gọi là sự sống phần xác và sự sống theo Thần Khí. Cũng vậy, con người có hai cái chết: chết về phần xác và chết về phần linh hồn.
Đối với phần xác: Có ngày khai sinh, có ngày khai tử. Không ai sống mãi ở trên cõi đời này. Người trẻ cũng chết. Người già cũng chết. Người giàu cũng chết. Người nghèo cũng chết. Người có quyền cao chức trọng cũng chết. Người thường dân cũng chết. Ladarô trước khi được Đức Giêsu cho sống lại cũng đã chết 4 ngày và chắc chắn sau đó ông cũng phải chết. Đức Giêsu vì mang bản tính con người cho nên Ngài cũng chết. Nhưng đức tin kitô giáo dạy chúng ta “xác loài người ngày sau sẽ sống lại .”
Ngoài phần xác, con người còn có phần linh hồn. Linh hồn nhận được sự sống của Thiên Chúa khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Linh hồn được nuôi dưỡng nhờ Bí tích Thêm sức, Giao Hòa, Thánh Thể, Xức dầu … Sự sống linh hồn sẽ được kéo dài vĩnh viễn bên Chúa khi con người chết trong ơn nghĩa Chúa. Chúng ta gọi là chết lành. Đó là trường hợp của ông Ladarô trong “dụ ngôn nhà phú hộ và ông Ladarô” (x. Lc 16,19-31), đó là tình trạng của năm cô khôn ngoan trong “dụ ngôn mười trinh nữ” (x. Mt 25,1-13), đó là tình trạng của những người đứng bên hữu Đức Giêsu trong ngày phán xét (x. Mt 25, 31.46). Đó là tình trạng của các thánh trên Thiên đàng. Chính Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi ."
Nhưng sự sống linh hồn cũng có thể bị chết do tội lỗi. Khi con người cố tình phạm tội trọng thì coi như linh hồn đã chết. Nếu tình trạng đó kéo dài sau khi chết cả phần xác thì sẽ lâm vào tình trạng chết đời đời. Chúng ta gọi là chết dữ. Đó là tình trạng của nhà phú hộ trong “dụ ngôn người phú hộ và ông Ladarô,” năm cô trinh nữ khờ dại trong “dụ ngôn mười trinh nữ” và những người đứng bên tả Đức Giêsu trong ngày cánh chung.
Tóm lại, sự cố của ông Ladarô là cơ hội để con người thể hiện sự quan tâm và tình liên đới với nhau. Đặc biệt đây là dịp để làm sáng danh Chúa và củng cố niềm tin vào sự sống đời đời của chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con cám tạ Chúa đã cho chúng con có đức tin, nhất là đức tin về sự sống đời sau. Xin cho mỗi người chúng con không chỉ tuyên xưng niềm tin mà còn thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống để ngày sau chúng con được sống mãi với Chúa trên Thiên Đàng. Amen.

Posted By Đỗ Lộc Sơn06:25