XIN MỞ TAI VÀ MIỆNG CON
Chúa Giê-su ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha,” nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. (Mc 7,34-35)
Suy niệm: Tờ báo Daily Yomiuri nhận định, giới trẻ ngày nay mở điện thoại từ 110 đến 150 lần một ngày, đôi khi không vì mục đích gì cả và họ hoảng hốt khi mở ra mà không có tin nhắn hay cú điện thoại nào cho mình. Có như thế chúng ta mới hiểu được tâm trạng người câm điếc trong Tin Mừng này. Anh buồn vì tai không nghe được, miệng anh không nói được rõ ràng. Đau khổ hơn, người chung quanh không hiểu anh và anh cũng chẳng làm cho người khác hiểu được anh. Sự cô đơn bên trong đau đớn hơn sự cô độc bên ngoài. Nhưng lòng thương xót của Chúa cứu độ anh. Chúa Giê-su kéo anh riêng ra và phán: “Ép-pha-tha”: hãy mở ra! Quyền năng Chúa chữa lành, cho anh vừa nghe được vừa nói được. Ngài chữa lành “hai trong một.” Không có gì vui hơn lần đầu tiên được nghe và được nói. Chúa làm biến đổi cuộc đời anh.
Mời Bạn: Về mặt thiêng liêng, không ít lần chúng ta tự nguyện trở nên người câm điếc. Lắm khi ta muốn điếc để không nghe lời Chúa, không muốn nghe Chúa đòi hỏi: nghe băng đĩa hàng giờ, nhưng lại không dành được vài phút để nghe lời Chúa! Miệng nói chuyện phiếm bất tận, nhưng lại không nói được một vài lời Chúa cho người thời đại! Nghe lời Chúa hôm nay, bạn có quyết tâm gì?
Sống Lời Chúa: Thực hành hằng ngày “hai trong một”: đọc lời Chúa và nói lời Chúa cho người khác mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin thương chữa lành khuyết tật của con, xin nói lời “Ép-pha-tha” khai mở tai miệng con ra, hầu con nghe và làm vang lời Chúa.
THÁNH NẾ SCÔLASTICA
ĐỒNG TRINH
Cho tới nay không ai trong miền Nôcia lại không biết đến tên một gia
đình quí phái và giầu công với xứ sở: gia đình ông Êuprôpiô và bà
Abundanti. Ông bà đã sinh hạ nhiều con, nhưng hai trẻ sinh đôi, một trai
một gái: Biển đức và Scholastica làm thơm danh gia đình hơn cả. Nhưng
chẳng may vừa chào đời được mấy tháng, hai em đã phải mồ côi mẹ. Từ đó
cả hai chỉ còn biết ngoan ngoãn sống trong tình thương ấp ủ của người
cha hiền từ đạo đức. Trong cảnh "gà trống nuôi con" ông Êuprôpiô càng
chăm lo nuôi dưỡng và âu yếm hai con hơn để bù đắp lại một phần nào tình
mẫu tử mà hai trẻ đã phải thiệt thòi. ĐỒNG TRINH
Lớn lên hai anh em cùng được cắp sách đến trường. Với tình huynh đệ sâu xa, hai anh em hằng yêu nhau khăng khít và sớm biết giúp nhau sống theo gương nhân đức của cha, nhất là lòng yêu mến Chúa Thánh Thần, Đấng tác tạo ơn thánh hoá của mỗi người. Đến tuổi trưởng thành, hai anh em lại cùng chung một lý tưởng tận hiến làm việc phụng sự Chúa và các linh hồn.
Tuy những nhà viết sử yên lặng không nói gì đến cuộc đời của Scôlastica trong suốt thời gian Biển đức du học tại Rôma, nhưng người ta có thể đoán chắc rằng trong thời gian đó Scôlastica đã ở tại nhà phụng dưỡng cha già cho tới khi thân phụ qua đời mới xin nhập cộng đồng các trinh nữ. Sau đó người ta được biết thánh nữ đã dựng nhà tại Subiacô, trong một thung lũng phì nhiêu được tắm gội bằng nước sông Liris. Ngôi nhà dòng này xưa kia là tổ ấm của đoàn trinh nữ quây quần chung quanh bà Palumbariôla, người đã có công đặt nền móng cho ngôi nhà và tụ họp các chị em. Về sau, những cơn gió bách hại đã khiến ngôi nhà thành nơi hoang tàn, mái thủng, tường xiêu. Tới thế kỷ thứ VIII lại được bà Tasia và cô Rôtruđê ái nữ của bà, trùng tu lại. Nhưng rồi qua bao mùa ly loạn, ngày nay chốn đó chỉ còn lại mấy mảnh tường rêu phong đổ nát.
Tuy Scôlastica cảm thấy nơi đó rất am hợp cho công việc tu thân tích đức của mình. Nhưng vâng lời anh mà Scôlastica coi như một người cha thiêng liêng, thánh nữ lại rời đi nơi khác để lập thêm nhiều cộng đồng khác. Thế là hai anh em mỗi người ở một tu viện. Tuy cùng ruột thịt, nhưng hai người rất ít khi gặp nhau; mỗi năm hai anh em chỉ gặp nhau một lần. Scôlastica vì là phận gái lại là em nên thường phải thân đến gặp anh tại đồi Cassinô, trong một căn nhà nhỏ hẹp mà qua mấy thế kỷ sau người ta còn giữ lại để kính nhớ. Mỗi lần gặp gỡ, hai người thường đàm đạo với nhau rất lâu giờ và thân mật. Đề tài các câu truyện thường không ngoài những vấn đề tu đức. Đó cũng là dịp để Côlastica cởi mở tâm hồn để rồi được đón nhận những lời bàn giải khôn ngoan của anh. Thường lệ, cứ sau bữa cơm chiều khi mặt trời gần lặn hai người mới cáo biệt nhau ra về. Nhưng lần kia, mà cũng là lần hội ngộ sau cùng, Scôlastica đã say mê nghe lời anh đến nỗi đã nấn ná muốn ở lại để được nghe thêm những lời vàng ngọc của anh. Thái độ "dùng dằng nửa ở nửa về" và lần nói truyện lịnh sử đó đã được thánh Grêgôriô dùng ngòi bút văn hoa ghi lại như sau:
Hôm ấy, quen như mọi năm, thánh nữ Scôlastica đến thăm người anh đáng kính. Với mấy môn đệ, thánh Biển đức ra đón và cùng qua một ngày trao đổi những tư tưởng thánh thiện, những vấn đề liên hệ đời sống trọn lành. Trong bữa cơm thân mật, thánh nữ thưa với anh: "Em xin anh cho phép em ở lại đêm nay, để chúng ta có thể trao đổi cho tới sáng về hạnh phúc thiên đàng". Biển đức thong thả trả lời: "Ô, em nói gì thế, anh không thể ở ngoài nhà dòng dù bất cứ với giá nào". Về chiều, cảnh vật bên ngoài tắm mầu vàng nhạt của vừng kim ô đã hạ thấp. Tuy nhiên da trời vẫn xanh trong, không gợn một áng mây, như để nâng hai tâm hồn trong sáng đang chìm lặng trong câu truyện lòng… Theo hơi gió chiều bên ngoài, thánh nữ nhẹ nhàng tha thiết xin anh cho phép… Nhưng Biển đức muốn trọng luật dòng hơn chiều ý em… Thấy anh cương quyết từ chối, Scôlastica chỉ còn cách gục đầu xuống bàn, hai tay ôm mặt cầu xin Thiên Chúa toàn năng. Lạ thay! Một lát sau, thánh nữ dừng cầu nguyện, trời đột nhiên đen nghịt, những cột mây dầy đặc ùn ùn dựng lên. Gió bắt đầu thổi mạnh, chớp loáng vạch lên nền trời những đường sáng cong queo, và giội lại những tiếng sấm ghê hồn. Những cơn mưa tầm tã thi nhau đổ ngập băng đồng ruộng… Gió vẫn thổi mạnh, mưa vẫn nặng hạt khiến không một ai có thể ra khỏi cửa. Thêm vào những cơn mưa trời, hai dòng lệ của thánh nữ chan hoà trên mặt bàn gỗ mộc, làm chứng một tâm hồn biết ơn và cảm kích hồng ân Thiên Chúa ban. Vì không thể trở về nhà, Biển đức nói với em bằng một giọng cảm động: "Này em, chớ gì Thiên Chúa toàn năng thứ tha cho em! Em đã xin gì với Chúa ?" Thánh nữ dịu dàng đáp lại: "Em xin anh nhưng anh đã từ chối, em liền xin với Thiên Chúa và Người đã nhận lời em…" Thế là hai anh em ở lại nhà khách suốt đêm cùng nhau trao đổi quan niệm và kinh nghiệm đời sống thiêng liêng, nhất là tìm hiểu về những ơn phúc đời sau…
Trời vừa sáng, Biển đức và Scôlastica từ biệt nhau vui sướng, một lần từ biệt đánh dấu cho cuộc tương phùng vĩnh cửu mai sau. Quả thế, ba ngày sau cuộc chia ly, đứng trong phòng nhìn qua cửa sổ, Biển đức thấy linh hồn em, xinh đẹp như chim bồ câu, nhẹ nhàng bay về thiên quốc. Rạo rực một niềm vui, Biển đức dâng lời tạ ơn Chúa, rồi sai người đưa xác em về mai táng trong nhà dòng. Ngài cũng chuẩn bị cho mình một chỗ nằm bên em, để dù tử thần đến cũng không tách biệt khỏi em, như hai linh hồn vẫn nên một trong tình yêu Thiên Chúa và đồng loại.
Theo sử gia Mabiông (Mabillon), năm 580, giữa thời thánh Grêgôriô Cả, nhà dòng Cassinô bị tàn phá đúng theo lời tiên báo của thánh Biển đức. Các tu sĩ phải trốn sang Rôma, để lại nấm mộ của hai đấng dưới đống gạch vụn, với mấy mảnh tường tiều tụy... Cho tới cuối thế kỷ thứ VII, các tu sĩ tỉnh Olêăng (Orléans) mới khởi công tìm lại xác hai vị thánh và đem về nước Pháp. Song đối với tài liệu trên, một ý kiến khác cho rằng lúc ấy xác hai vị thánh được để ở Ý.
Nhưng một điều chắc chắn là từ thế kỷ thứ VII, hai thánh nhân đã được kính tại nhiều nơi. Riêng thánh nữ Côlástica đã được ghi tên vào sổ các thánh, thuộc Giáo hội Rôma, và được coi như một ngôi sao sáng ngời đức trinh khiết và tinh thần tận hiến.
Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời
Một
người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu caọ
Ông đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.
Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữạ Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.
Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữạ Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.
Người
đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng
đi qua chiếc cầụ Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và
chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán chường không ngần ngại rút cả
ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng bên kia thế
giới ông không cần tiền bạc nữạ Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc
rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời
và nói: "Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một
người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại
tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông". Nói xong, người hành
khất ném cả ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán
đời tiếp tục gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của ông.
Ðã
hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đờị
Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không
muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành
khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người
nàọ Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao
tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên,
rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.
Không
gì buồn chán cho bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống
mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con
người chán chường và đau khổ nhất.
Ai
cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người
ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh
vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và lắm khi
chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.
Hạnh
phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đị Có đi
theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của
chúng ta là gì?
Chúa
Giêsu, Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta
hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân. Ai
càng tích trữ và chiếm giữ cho mình, người đó càng nghèo nàn và khốn
khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không
được nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như Thánh
Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: "Cho thì có hạnh phúc hơn nhận
lãnh".
Cho
là liều thuốc chữa trị được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn
chúng ta: đó là sự chán sống. Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi
khổ đau trong tâm hồn chúng tạ Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì
thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử
mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm thấy được xoa
dịu trong tâm hồn.