Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC),
Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum
(Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
|
Sau bài trả lời của chúng tôi ngày 1-3-2016 về ăn chay và kiêng thịt, một số độc giả góp ý thêm như sau.
Một
độc giả nhận thấy một sự thiếu vắng quan trọng trong câu trả lởi của
tôi: "Trong câu trả lời dài và đầy kỹ thuật của cha, cha không hề nhắc
đến Chúa Giêsu Kitô. Liệu mùa Chay của chúng ta đã quá nằm ngang, đến
nỗi bốn mươi ngày chay tịnh của Chúa, cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài,
bị lãng quên chăng?”.
Tôi
xin trả lời: đây hoàn toàn là lỗi tại tôi (mea culpa), tôi xin nhận
lỗi; vì đôi khi sự cố gắng cho được chính xác về mặt kỹ thuật đã làm mờ
các điều cốt yếu.
Một
độc giả khác, ở Anh quốc, sửa chữa một lỗi xem ra là khác nhau giữa các
khu vực. “Thưa cha, cha đã viết: "Các Giám Mục của Vương Quốc Anh đã có
một quy định tương tự, nhưng cách đây vài năm, Hội Đồng quyết định trở
lại việc thực hành truyền thống kiêng thịt vào tất cả các ngày Thứ Sáu
trong năm”. Con nghĩ rằng có lẽ cha muốn nói về Hội đồng Giám mục Anh và
xứ Wales. Trong khi đó, Hội đồng Giám mục Scotland (vẫn nằm trong Vương
quốc Anh) đã qui định rằng mỗi người Công Giáo có thể tùy ý chọn kiêng
thịt mọi ngày thứ Sáu trong năm, và Hội đồng không thay đổi lập trường
này".
Một
độc giả ở nước Cộng hòa Dân chủ Congo bày tỏ sự không hài lòng cho một
phần câu trả lời của tôi: "Con đã chờ đợi để biết được các lý do thật sự
của việc kiêng thịt liên quan đến mùa Chay, là giai đoạn chuẩn bị cho
lễ Phục Sinh. Liệu sự việc không ăn thịt trong mùa Chay là tự động sản
sinh sự hoán cải trong mùa Chay, và chuẩn bị cho lễ Phục Sinh không? Cha
nói: “Ý tưởng cùa việc kiêng thịt là ưa thích một chế độ ăn uống ít xa
hoa và đơn giản hơn so với bình thường". Câu trả lời này của cha không
thuyết phục con, bởi vì cha cũng có thể tìm thấy bữa ăn rất xa hoa mà
không có thịt. Cha có thể tìm thấy cá đắt hơn thịt. Còn người ăn chay
trường thì sao? Như thế liệu việc kiêng thịt là quan trọng, hoặc có cái
gì đó sâu sắc hơn chăng? Còn các người tuân giữ trung thành với tập tục
cổ xưa của Giáo Hội nhưng không thực hiện hoán cải đời sống thì sao,
thưa cha? Liệu đó không phải là lối sống của người biệt phái sao?”.
Bạn
thân mến, trên thực tế, nếu đó là câu trả lời đầy đủ của tôi, thì tôi
cũng sẽ không thỏa mãn. Tuy nhiên, trong khi có lẽ tôi đã không nhấn
mạnh đủ đến sự chuẩn bị cho lễ Phục Sinh, tôi tin rằng tôi đã giải quyết
sự ưu tư của bạn rồi. Thí dụ, tôi nói:
"Mục đích của luật kiêng thịt là để giáo dục chúng ta trong luật thiêng liêng cao hơn của đức ái và sự tự chủ.
“Mục
đích thiêng liêng này cũng có thể giúp chúng ta hiểu được lý do để loại
trừ thịt vào những ngày sám hối. Có một niềm tin phổ biến rằng thịt có
nghĩa là khiêu gợi và kích thích các dục vọng cơ bản của con người. Việc
từ bỏ các thực phẩm thịt được coi là một phương tiện tuyệt vời chọ sự
chinh phục bản thân bướng bỉnh và hướng cuộc đời của mình vào Thiên
Chúa.
“Mục
đích khổ hạnh và thiêng liêng của việc ăn chay và kiêng thịt cũng có
thể giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao các việc này đã luôn được gắn
với việc bố thí.
“Bằng
cách này, nó không có nghĩa là bỏ bò bít tết để ăn tôm hùm và trứng cá
muối. Ý tưởng cùa việc kiêng thịt là ưa thích một chế độ ăn uống ít xa
hoa và đơn giản hơn so với bình thường.
“Vì
thế chúng ta có dư chút tiền của để giúp đỡ cho những người kém may mắn
hơn mình, và cũng rèn luyện bản thân thoát khỏi ách nô lệ của các thú
vui vật chất. Ngay cả một người Công Giáo ăn chay trường cũng có thể
thực hành kiêng thịt bằng cách thay thế một thức ăn đắt tiền hơn trong
chế độ ăn uống, bằng một cái gì đó đơn giản hơn”.
Ăn
chay và kiêng thịt, giống như bất kỳ sự thực hành tôn giáo nào, dễ sa
vào sự cám dỗ của sự giả hình và lối sống của người biệt phái. Tuy
nhiên, sự thách thức là sống chúng như chúng có nghĩa để được sống, và
không để chúng sang một bên vì có nguy hiểm. Cuối cùng, chúng ta có thể
thấy rằng chúng ta không làm sự gì một cách tuyệt đối cả. Như Mẹ Têrêxa,
sẽ được tuyên thánh ngày 4-9 tới, đã viết:
"Việc tốt bạn làm hôm nay, mọi người sẽ thường quên ngày mai. Nhưng bạn hãy vẫn cứ làm tốt.
"Hãy trao cho thế giới cái tốt nhất bạn có, và nó là không bao giờ đủ. Nhưng cứ cho đi cái tốt nhất của bạn.
"Bạn thấy đấy, trong phân tích cuối cùng, là giữa bạn và Chúa; chứ không bao giờ là giữa bạn và họ".
Ăn chay hay ăn chơi?
Chúa nhật thứ Tư mùa Chay được đặt tên là Chúa nhật “Laetare”
(Vui lên đi), dường như mang tính cách xả hơi sau khi đã trải qua một
nửa chặng đường đền tội. Tuy nhiên, so với các tôn giáo khác, xem ra
việc ăn chay trong Kitô giáo có vẻ “ăn chơi”, chứ đâu có gì khắc khổ!
Phải chăng đó là do kỷ luật chay tịnh của Kitô giáo lỏng lẻo, hay bởi vì
các tín hữu không thực hành việc ăn chay cách nghiêm túc?
|
Tôi
không dám so sánh kỷ luật chay tịnh của Kitô giáo với các tôn giáo
khác, bởi vì không biết có nên dừng lại ở khía cạnh lý thuyết hay cần
phải kiểm chứng cả phương diện thực hành nữa. Thực ra, khi đọc Phúc âm,
chúng ta đã thấy ngay từ thời của Chúa Giêsu, đã có người nêu vấn nạn
rồi, bởi vì xem ra các môn đệ của Ngài ăn chơi, đang khi các môn đệ của
ông Gioan thì ăn chay. Chúng ta hãy đọc lại đoạn sách Tin mừng thánh
Marcô, chương 2 câu 18-20: “Bấy giờ các môn đệ ông Gioan và các người
Pharisêu đang ăn chay; có người đến hỏi đức Giêsu: tại sao các môn đệ
ông Gioan và các môn đệ người Pharisêu ăn chay, mà các môn đệ ông lại
không ăn chay?” Đức Giêsu trả lời như sau:
“Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được, nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó”. Qua câu nói vừa rồi, ta thấy Đức Giêsu đi xa hơn các ngôn sứ một bước. Thực vậy, trong Cựu ước, các ngôn sứ (tựa như ông Isaia, ở chương 58) đã đặt việc ăn chay trong bối cảnh của tất cả đời sống luân lý, nghĩa là không chỉ kiêng ăn uống mà còn phải kiêng phạm tội, kiêng xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Chúng ta đã nghe đoạn văn này trong Thánh lễ ngày thứ 6 và thứ 7 đầu mùa Chay. Chúa Giêsu thì mở thêm một chiều kích khác, chiều kích huyền bí của việc ăn chay: việc ăn chay mang một ý nghĩa tang chế bởi vì mất đi một người yêu. Chính vì thế mà trong mùa Chay, Giáo luật buộc ăn chay vào hai ngày thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Việc ăn chay vào thứ tư lễ tro mang tính cách sám hối đền tội; còn việc ăn chay thứ 6 tuần thánh thì mang màu sắc tang chế.
Giáo luật chỉ buộc ăn chay mỗi năm hai ngày thì đâu thấm thía gì, so sánh với nhiều tôn giáo ở Việt Nam buộc ăn chay mỗi tháng 2 lần, vào mồng 1 và ngày rằm.
Thiết tưởng nên phân biệt: một bên là luật buộc, một bên là khuyến khích. Tôi không dám quyết chắc rằng ở Việt Nam có tôn giáo nào buộc phải ăn chay hay không, hoặc là chỉ khuyến khích mà thôi. Trong lịch sử Kitô giáo, thì ta thấy có sự phân biệt này, tuy trải qua thời gian, đã có sự tiến triển trong cả hai khía cạnh.
Vào thời Chúa Giêsu tại thế, thì các môn đệ không ăn chay. Từ hồi nào thì các Kitô hữu bắt đầu ăn chay?
Như chị đã biết, những tài liệu về các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo không được phong phú cho lắm. Dù sao, chúng ta đừng nên quên rằng các tín hữu đã giữ ấn tượng sâu đậm về việc Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày vào lúc khai mạc sứ vụ, một điều mà Cựu ước cũng đã ghi nhận nơi hai vị đại ngôn sứ Môsê và Êlia. Sách Tông đồ công vụ cũng thuật lại rằng thánh Phaolô đã ăn chay 3 ngày sau khi trở lại (chương 9, câu 9), và khi lãnh sứ mạng làm tông đồ dân ngoại (chương 13 câu 2-3). Những cuộc ăn chay này xem ra mang tính cách huyền nhiệm, nghĩa là chuẩn bị để gặp gỡ Chúa, chứ không mang tính cách đền tội hoặc tang tóc. Từ thế kỷ II và III trở đi thì có nhiều tài liệu cho biết các tín hữu giữ chay vào hai ngày thứ 6 và thứ 7 tuần thánh, như là dấu hiệu tang tóc. Hơn thế nữa, thánh Irênê, trong thư gửi cho giáo hoàng Victor, cho biết rằng các tín hữu ở bên Đông phương giữ chay suốt tuần thánh. Sang thế kỷ IV, thì thấy nhiều giáo phụ bên Tây và bên Đông, nói đến tục lệ giữ chay suốt 40 ngày.
Và tục lệ ấy kéo dài cho đến ngày nay, phải không?
Không hoàn toàn đúng như vậy. Một đàng, ngày nay lịch phụng vụ bắt đầu mùa Chay từ thứ tư lễ tro, nghĩa là 46 ngày chứ không phải 40 ngày. Lý do là tại vì một tục lệ khá cổ ngưng giữ chay vào các ngày Chúa nhật, do đó phải tính trội thêm 6 ngày cho đủ số 40. Tuy nhiên, sự khác biệt quan trọng hơn nữa là ở chỗ nội dung việc giữ chay. Chắc chị biết những quy định của giáo luật hiện hành về việc giữ chay chứ?
Trong các ngày giữ chay, thì chỉ được ăn no một bữa thôi.
Tạm chấp nhận như vậy đi. Cần nói thêm rằng giáo luật chỉ ấn định phải giữ chay 2 ngày, đó là thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Thời xưa, các tín hữu phải giữ chay 40 ngày, chứ không phải chỉ có 2 ngày mà thôi. Và còn một sự khác biệt quan trọng nữa, đó là ngày chay thì không được ăn uống gì hết!
Như vậy là tuyệt thực 40 ngày hay sao?
Tôi xin lặp lại, vào thời xưa, trong suốt 40 ngày, các tín hữu không được ăn uống gì hết. Nhưng đó không phải là tuyệt thực. Trong suốt ngày, họ không được ăn uống, nhưng khi mặt trời lặn (nghĩa là hết ngày, và đêm về) thì họ được phép ăn một bữa.
Cũng như các tín đồ Hồi giáo trong mùa Radmadan, ban ngày thì ăn chay nhưng ban đêm thì đánh chén, phải không?
Tôi không biết luật của Hồi giáo đã quy định thế nào về việc giữ chay, nhưng các Kitô hữu cổ thời kèm theo việc giữ chay với việc kiêng thịt, kiêng rượu, kiêng đồ béo. Vì thế khó mà tưởng tượng được rằng họ được phép đánh chén sau khi mặt trời lặn!
Như vậy thì các tín hữu thời xưa ăn chay nghiêm túc, còn ngày nay thì chúng ta chỉ ăn chơi. Từ hồi nào có sự chuyển hướng như vậy?
Theo các sử gia, sự chuyển hướng xảy ra vào thời Trung cổ, vào lúc mà lòng nhiệt thành bắt đầu suy giảm, đồng thời óc vụ luật bắt đầu len lỏi vào đời sống đạo. Vào các thế kỷ đầu tiên, khi các tín hữu giữ chay vào thứ 6 tuần thánh, thì việc chay tịnh mang tính cách huyền nhiệm và phụng vụ, theo nghĩa là các tín hữu dành hôm đó vào việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ. Đến khi mùa Chay kéo dài ra 40 ngày, thì dĩ nhiên là không thể nào ngồi trong nhà thờ suốt trong thời gian đó. Còn bao nhiêu công việc khác phải làm nữa chứ, và nếu bụng đói thì làm sao cuốc đất được? Từ đó, người ta tìm cách nào giải thích luật theo nghĩa co dãn. Như đã nói trên đây, thời xưa, các tín hữu không được ăn uống gì trong suốt ngày giữ chay. Việc chấm dứt ngày chay không được đánh dấu bằng việc mặt trời lặn, nhưng là với Kinh Chiều. Để tôn trọng tục lệ cổ, người ta đọc Kinh Chiều liền sau giờ Chín (nghĩa là 3 giờ chiều), và từ thế kỷ XIV thì đọc kinh trùng với bữa ăn trưa! Ngoài ra, dựa theo chứng tích của thánh Tôma Aquinô, người ta biết rằng cho đến thế kỷ XIII, việc giữ chay bao trùm luôn cả việc kiêng uống (chứ không phải chỉ kiêng ăn); thánh Tôma thì nới rộng hơn một chút, khi cho rằng việc uống nước không phá chay (II-II, q.147, a.6).
Như vậy, thời xưa, khi giữ chay thì chỉ được ăn một bữa, và cùng lắm chỉ được phép uống tí nước cho đỡ khát. Từ hồi nào được ăn thêm bữa phụ?
Theo các sử gia, tục ăn thêm bữa phụ bắt nguồn từ các đan viện. Nên biết là luật Giáo hội thời xưa chỉ buộc giữ chay trong mùa Chay (nghĩa là 40 ngày trước lễ Phục sinh), còn trong các Dòng tu, thì ngoài luật phải kiêng thịt suốt đời, họ còn phải giữ chay từ lễ suy tôn Thánh giá (14 tháng 9) cho đến lễ Phục sinh năm sau (nghĩa là hơn kém 7 tháng). Xét vì các đan sĩ phải làm việc đồng áng chứ không chỉ ngồi trong nhà thờ đọc kinh, cho nên họ được phép uống một ly rượu vào ban tối, sau khi nghe đọc sách Collationes của Cassiano. Dần dần, bên cạnh ly rượu còn thêm tí bánh. Từ đó, bữa lót lòng được gọi là “collations”. (Ngày nay trong tiếng Ý, bữa điểm tâm được gọi là colazione). Từ thế kỷ XIV, các giáo dân cũng được phép dùng bữa lót lòng vào những ngày giữ chay. Thế rồi từ chỗ điểm tâm lót lòng, kỷ luật giữ chay được nới rộng dần dần cho đến kỷ luật hiện hành.
Tóm lại, khi ôn lại lịch sử, ta có thể kết luận rằng kỷ luật khổ chế đã sa sút: từ chỗ ăn chay nghiêm ngặt vào các thế kỷ đầu, sang đến chỗ lỏng lẻo đến nỗi chỉ còn là ăn chơi vào thời cận đại, có đúng như vậy không?
Cần phải phân biệt hai khía cạnh: một bên là kỷ luật, một bên là tinh thần. Xét về kỷ luật, thì khi so sánh với các thế kỷ đầu tiên, quả thật việc ăn chay ngày nay chỉ còn là chuyện ăn chơi. Tuy nhiên, nếu xét về mặt tinh thần, thì việc phê bình đối chiếu thật không đơn giản. Việc giữ chay chỉ là một phương tiện khổ chế đền tội cũng như là một phương tiện bày tỏ ý chí cải hoán. Từ thời các giáo phụ, Giáo hội không hề tách rời việc ăn chay với các phương tiện khác nữa để đạt đến cùng một mục tiêu, đó là: sự cầu nguyện, thực hành nhân đức, đặc biệt là đức bác ái. Vì thế để đánh giá trình độ đạo đức của một cá nhân hay một thời đại, chúng ta không thể chỉ đo lường qua mức độ nghiêm khắc của kỷ luật ăn chay, nhưng còn phải đối chiếu với việc thực hành các công tác từ thiện bác ái, các hành vi tự kiềm chế tính kiêu ngạo ích kỷ, cũng như thái độ từ tốn trong cách cư xử với Thiên Chúa và tha nhân nữa. Dù sao, trong vấn đề này chúng ta cần dung hoà cả hai khía cạnh: kỷ luật và tinh thần. Kỷ luật nghiêm khắc mà không có tinh thần thì dễ rơi vào thái độ bôi bác giả hình. Tinh thần mà không có kỷ luật thì có nguy cơ tan biến ra khói!
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, O.P.“Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được, nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó”. Qua câu nói vừa rồi, ta thấy Đức Giêsu đi xa hơn các ngôn sứ một bước. Thực vậy, trong Cựu ước, các ngôn sứ (tựa như ông Isaia, ở chương 58) đã đặt việc ăn chay trong bối cảnh của tất cả đời sống luân lý, nghĩa là không chỉ kiêng ăn uống mà còn phải kiêng phạm tội, kiêng xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Chúng ta đã nghe đoạn văn này trong Thánh lễ ngày thứ 6 và thứ 7 đầu mùa Chay. Chúa Giêsu thì mở thêm một chiều kích khác, chiều kích huyền bí của việc ăn chay: việc ăn chay mang một ý nghĩa tang chế bởi vì mất đi một người yêu. Chính vì thế mà trong mùa Chay, Giáo luật buộc ăn chay vào hai ngày thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Việc ăn chay vào thứ tư lễ tro mang tính cách sám hối đền tội; còn việc ăn chay thứ 6 tuần thánh thì mang màu sắc tang chế.
Giáo luật chỉ buộc ăn chay mỗi năm hai ngày thì đâu thấm thía gì, so sánh với nhiều tôn giáo ở Việt Nam buộc ăn chay mỗi tháng 2 lần, vào mồng 1 và ngày rằm.
Thiết tưởng nên phân biệt: một bên là luật buộc, một bên là khuyến khích. Tôi không dám quyết chắc rằng ở Việt Nam có tôn giáo nào buộc phải ăn chay hay không, hoặc là chỉ khuyến khích mà thôi. Trong lịch sử Kitô giáo, thì ta thấy có sự phân biệt này, tuy trải qua thời gian, đã có sự tiến triển trong cả hai khía cạnh.
Vào thời Chúa Giêsu tại thế, thì các môn đệ không ăn chay. Từ hồi nào thì các Kitô hữu bắt đầu ăn chay?
Như chị đã biết, những tài liệu về các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo không được phong phú cho lắm. Dù sao, chúng ta đừng nên quên rằng các tín hữu đã giữ ấn tượng sâu đậm về việc Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày vào lúc khai mạc sứ vụ, một điều mà Cựu ước cũng đã ghi nhận nơi hai vị đại ngôn sứ Môsê và Êlia. Sách Tông đồ công vụ cũng thuật lại rằng thánh Phaolô đã ăn chay 3 ngày sau khi trở lại (chương 9, câu 9), và khi lãnh sứ mạng làm tông đồ dân ngoại (chương 13 câu 2-3). Những cuộc ăn chay này xem ra mang tính cách huyền nhiệm, nghĩa là chuẩn bị để gặp gỡ Chúa, chứ không mang tính cách đền tội hoặc tang tóc. Từ thế kỷ II và III trở đi thì có nhiều tài liệu cho biết các tín hữu giữ chay vào hai ngày thứ 6 và thứ 7 tuần thánh, như là dấu hiệu tang tóc. Hơn thế nữa, thánh Irênê, trong thư gửi cho giáo hoàng Victor, cho biết rằng các tín hữu ở bên Đông phương giữ chay suốt tuần thánh. Sang thế kỷ IV, thì thấy nhiều giáo phụ bên Tây và bên Đông, nói đến tục lệ giữ chay suốt 40 ngày.
Và tục lệ ấy kéo dài cho đến ngày nay, phải không?
Không hoàn toàn đúng như vậy. Một đàng, ngày nay lịch phụng vụ bắt đầu mùa Chay từ thứ tư lễ tro, nghĩa là 46 ngày chứ không phải 40 ngày. Lý do là tại vì một tục lệ khá cổ ngưng giữ chay vào các ngày Chúa nhật, do đó phải tính trội thêm 6 ngày cho đủ số 40. Tuy nhiên, sự khác biệt quan trọng hơn nữa là ở chỗ nội dung việc giữ chay. Chắc chị biết những quy định của giáo luật hiện hành về việc giữ chay chứ?
Trong các ngày giữ chay, thì chỉ được ăn no một bữa thôi.
Tạm chấp nhận như vậy đi. Cần nói thêm rằng giáo luật chỉ ấn định phải giữ chay 2 ngày, đó là thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Thời xưa, các tín hữu phải giữ chay 40 ngày, chứ không phải chỉ có 2 ngày mà thôi. Và còn một sự khác biệt quan trọng nữa, đó là ngày chay thì không được ăn uống gì hết!
Như vậy là tuyệt thực 40 ngày hay sao?
Tôi xin lặp lại, vào thời xưa, trong suốt 40 ngày, các tín hữu không được ăn uống gì hết. Nhưng đó không phải là tuyệt thực. Trong suốt ngày, họ không được ăn uống, nhưng khi mặt trời lặn (nghĩa là hết ngày, và đêm về) thì họ được phép ăn một bữa.
Cũng như các tín đồ Hồi giáo trong mùa Radmadan, ban ngày thì ăn chay nhưng ban đêm thì đánh chén, phải không?
Tôi không biết luật của Hồi giáo đã quy định thế nào về việc giữ chay, nhưng các Kitô hữu cổ thời kèm theo việc giữ chay với việc kiêng thịt, kiêng rượu, kiêng đồ béo. Vì thế khó mà tưởng tượng được rằng họ được phép đánh chén sau khi mặt trời lặn!
Như vậy thì các tín hữu thời xưa ăn chay nghiêm túc, còn ngày nay thì chúng ta chỉ ăn chơi. Từ hồi nào có sự chuyển hướng như vậy?
Theo các sử gia, sự chuyển hướng xảy ra vào thời Trung cổ, vào lúc mà lòng nhiệt thành bắt đầu suy giảm, đồng thời óc vụ luật bắt đầu len lỏi vào đời sống đạo. Vào các thế kỷ đầu tiên, khi các tín hữu giữ chay vào thứ 6 tuần thánh, thì việc chay tịnh mang tính cách huyền nhiệm và phụng vụ, theo nghĩa là các tín hữu dành hôm đó vào việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ. Đến khi mùa Chay kéo dài ra 40 ngày, thì dĩ nhiên là không thể nào ngồi trong nhà thờ suốt trong thời gian đó. Còn bao nhiêu công việc khác phải làm nữa chứ, và nếu bụng đói thì làm sao cuốc đất được? Từ đó, người ta tìm cách nào giải thích luật theo nghĩa co dãn. Như đã nói trên đây, thời xưa, các tín hữu không được ăn uống gì trong suốt ngày giữ chay. Việc chấm dứt ngày chay không được đánh dấu bằng việc mặt trời lặn, nhưng là với Kinh Chiều. Để tôn trọng tục lệ cổ, người ta đọc Kinh Chiều liền sau giờ Chín (nghĩa là 3 giờ chiều), và từ thế kỷ XIV thì đọc kinh trùng với bữa ăn trưa! Ngoài ra, dựa theo chứng tích của thánh Tôma Aquinô, người ta biết rằng cho đến thế kỷ XIII, việc giữ chay bao trùm luôn cả việc kiêng uống (chứ không phải chỉ kiêng ăn); thánh Tôma thì nới rộng hơn một chút, khi cho rằng việc uống nước không phá chay (II-II, q.147, a.6).
Như vậy, thời xưa, khi giữ chay thì chỉ được ăn một bữa, và cùng lắm chỉ được phép uống tí nước cho đỡ khát. Từ hồi nào được ăn thêm bữa phụ?
Theo các sử gia, tục ăn thêm bữa phụ bắt nguồn từ các đan viện. Nên biết là luật Giáo hội thời xưa chỉ buộc giữ chay trong mùa Chay (nghĩa là 40 ngày trước lễ Phục sinh), còn trong các Dòng tu, thì ngoài luật phải kiêng thịt suốt đời, họ còn phải giữ chay từ lễ suy tôn Thánh giá (14 tháng 9) cho đến lễ Phục sinh năm sau (nghĩa là hơn kém 7 tháng). Xét vì các đan sĩ phải làm việc đồng áng chứ không chỉ ngồi trong nhà thờ đọc kinh, cho nên họ được phép uống một ly rượu vào ban tối, sau khi nghe đọc sách Collationes của Cassiano. Dần dần, bên cạnh ly rượu còn thêm tí bánh. Từ đó, bữa lót lòng được gọi là “collations”. (Ngày nay trong tiếng Ý, bữa điểm tâm được gọi là colazione). Từ thế kỷ XIV, các giáo dân cũng được phép dùng bữa lót lòng vào những ngày giữ chay. Thế rồi từ chỗ điểm tâm lót lòng, kỷ luật giữ chay được nới rộng dần dần cho đến kỷ luật hiện hành.
Tóm lại, khi ôn lại lịch sử, ta có thể kết luận rằng kỷ luật khổ chế đã sa sút: từ chỗ ăn chay nghiêm ngặt vào các thế kỷ đầu, sang đến chỗ lỏng lẻo đến nỗi chỉ còn là ăn chơi vào thời cận đại, có đúng như vậy không?
Cần phải phân biệt hai khía cạnh: một bên là kỷ luật, một bên là tinh thần. Xét về kỷ luật, thì khi so sánh với các thế kỷ đầu tiên, quả thật việc ăn chay ngày nay chỉ còn là chuyện ăn chơi. Tuy nhiên, nếu xét về mặt tinh thần, thì việc phê bình đối chiếu thật không đơn giản. Việc giữ chay chỉ là một phương tiện khổ chế đền tội cũng như là một phương tiện bày tỏ ý chí cải hoán. Từ thời các giáo phụ, Giáo hội không hề tách rời việc ăn chay với các phương tiện khác nữa để đạt đến cùng một mục tiêu, đó là: sự cầu nguyện, thực hành nhân đức, đặc biệt là đức bác ái. Vì thế để đánh giá trình độ đạo đức của một cá nhân hay một thời đại, chúng ta không thể chỉ đo lường qua mức độ nghiêm khắc của kỷ luật ăn chay, nhưng còn phải đối chiếu với việc thực hành các công tác từ thiện bác ái, các hành vi tự kiềm chế tính kiêu ngạo ích kỷ, cũng như thái độ từ tốn trong cách cư xử với Thiên Chúa và tha nhân nữa. Dù sao, trong vấn đề này chúng ta cần dung hoà cả hai khía cạnh: kỷ luật và tinh thần. Kỷ luật nghiêm khắc mà không có tinh thần thì dễ rơi vào thái độ bôi bác giả hình. Tinh thần mà không có kỷ luật thì có nguy cơ tan biến ra khói!
Để ăn chay hiệu quả
Hàng năm, chúng ta có Mùa Chay để noi gương Chúa Giêsu ăn chay
và cầu nguyện trong hoang địa 40 đêm ngày (Lc 4:1-2). Đây là dịp thuận
tiện để chúng ta thực hành dạng hy sinh mới hoặc phong phú hóa đời sống
cầu nguyện.
|
ĂN CHAY NGÀY THỨ SÁU
Mỗi năm, Giáo Hội yêu cầu chúng ta chỉ ăn chay hai ngày – Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng chúng ta có thể ăn chay nhiều hơn để có lợi cho linh hồn chúng ta, nhất là trong Mùa Chay này. Và đừng quên rằng chúng ta phải kiêng thịt vào các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay.
ĐI ĐÀNG THÁNH GIÁ
Đa số các giáo xứ đều đi Đàng Thánh Giá vào các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay, nhiều giáo xứ còn đi Đàng Thánh Giá mỗi tuần vào ngày Thứ Sáu. Hãy cố gắng dành thời gian đến nhà thờ để cùng mọi người theo chân Chúa Giêsu trên 14 chặng đau khổ của Ngài.
VIẾNG THÁNH THỂ
Hãy dành thời gian cầu nguyện trước Thánh Thể, đó là điều làm vui lòng Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các môn đệ vẫn “vô tư”, Chúa Giêsu nói với họ: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:40-41). Viếng Thánh Thể còn quen gọi là “làm giờ thánh”.
THỰC HÀNH BÁC ÁI
Hãy thực hành bác ái cụ thể bằng cách hy sinh sự thoải mái riêng để trao tặng quần áo, dụng cụ, tiền bạc,... cho những người còn phải sống khó khăn hơn mình. Bạn cũng có thể dành thời gian đi làm từ thiện, thăm viếng bệnh nhân và người già để an ủi và cảm thông nỗi khổ với họ. Mùa Chay là thời Thiên Chúa thi ân, là ngày Thiên Chúa cứu độ (2 Cr 6:2).
SUY NIỆM PHÚC ÂM
Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho bạn hiểu đúng và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Hãy dành thời gian cầu nguyện và suy niệm khi đọc Phúc Âm nói về cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu.
GƯƠNG THÁNH NHÂN
Các thánh là những anh hùng đức tin. Họ cũng là những người sống bình thường như chúng ta, nhưng họ đã thực hành nhân đức một cách phi thường. Họ có thể giúp chúng ta hành động can trường như họ. Trong Mùa Chay, hãy noi gương vị thánh nào mà bạn yêu mến và cố gắng sống như vị thánh đó. Hãy xin vị thánh đó nguyện giúp cầu thay cho bạn.
VÀO SA MẠC
Vào sa mạc là sống trong “khoảng lặng” của tâm hồn ngay giữa cuộc sống ồn ào náo nhiệt này. Hãy giảm bớt các hoạt động vô bổ hoặc chưa thực sự cần thiết. Hãy tắt ti-vi, máy vi tính, điện thoại,… Chỉ sử dụng chúng khi thực sự cần thiết. Hãy tận hưởng sự thinh lặng, hãy dành thời gian sống cho người khác, đặc biệt là hãy dành thời gian gặp gỡ Chúa, vì chúng ta chỉ có thể gặp Ngài nơi “sa mạc tâm hồn” mà thôi: “Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo” (Mt 6:6).
Mỗi năm, Giáo Hội yêu cầu chúng ta chỉ ăn chay hai ngày – Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng chúng ta có thể ăn chay nhiều hơn để có lợi cho linh hồn chúng ta, nhất là trong Mùa Chay này. Và đừng quên rằng chúng ta phải kiêng thịt vào các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay.
ĐI ĐÀNG THÁNH GIÁ
Đa số các giáo xứ đều đi Đàng Thánh Giá vào các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay, nhiều giáo xứ còn đi Đàng Thánh Giá mỗi tuần vào ngày Thứ Sáu. Hãy cố gắng dành thời gian đến nhà thờ để cùng mọi người theo chân Chúa Giêsu trên 14 chặng đau khổ của Ngài.
VIẾNG THÁNH THỂ
Hãy dành thời gian cầu nguyện trước Thánh Thể, đó là điều làm vui lòng Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các môn đệ vẫn “vô tư”, Chúa Giêsu nói với họ: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:40-41). Viếng Thánh Thể còn quen gọi là “làm giờ thánh”.
THỰC HÀNH BÁC ÁI
Hãy thực hành bác ái cụ thể bằng cách hy sinh sự thoải mái riêng để trao tặng quần áo, dụng cụ, tiền bạc,... cho những người còn phải sống khó khăn hơn mình. Bạn cũng có thể dành thời gian đi làm từ thiện, thăm viếng bệnh nhân và người già để an ủi và cảm thông nỗi khổ với họ. Mùa Chay là thời Thiên Chúa thi ân, là ngày Thiên Chúa cứu độ (2 Cr 6:2).
SUY NIỆM PHÚC ÂM
Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho bạn hiểu đúng và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Hãy dành thời gian cầu nguyện và suy niệm khi đọc Phúc Âm nói về cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu.
GƯƠNG THÁNH NHÂN
Các thánh là những anh hùng đức tin. Họ cũng là những người sống bình thường như chúng ta, nhưng họ đã thực hành nhân đức một cách phi thường. Họ có thể giúp chúng ta hành động can trường như họ. Trong Mùa Chay, hãy noi gương vị thánh nào mà bạn yêu mến và cố gắng sống như vị thánh đó. Hãy xin vị thánh đó nguyện giúp cầu thay cho bạn.
VÀO SA MẠC
Vào sa mạc là sống trong “khoảng lặng” của tâm hồn ngay giữa cuộc sống ồn ào náo nhiệt này. Hãy giảm bớt các hoạt động vô bổ hoặc chưa thực sự cần thiết. Hãy tắt ti-vi, máy vi tính, điện thoại,… Chỉ sử dụng chúng khi thực sự cần thiết. Hãy tận hưởng sự thinh lặng, hãy dành thời gian sống cho người khác, đặc biệt là hãy dành thời gian gặp gỡ Chúa, vì chúng ta chỉ có thể gặp Ngài nơi “sa mạc tâm hồn” mà thôi: “Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo” (Mt 6:6).
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)