Thứ Sáu, 5 tháng 1, 2018

5 Phút cho Lời Chúa ngày 5/1/2018

Filled under:

Ở ĐÂU CÓ CÁI HAY!
“Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?” Ông Phi-líp-phê trả lời: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1,46-47)
Suy niệm: Khát vọng bẩm sinh một đời của con người là tìm kiếm cái đúng, cái tốt, cái đẹp và cái hay. Chỉ nói riêng cái hay, mỗi người đều có một chọn lựa khác nhau, tùy theo quan điểm cá nhân. Quan điểm này được hình thành theo thời gian, tùy giáo dục, nhận thức… và có thể đổi thay. Dưới góc nhìn Ki-tô hữu, tuy cùng “một đức tin, một phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha”, nhưng mỗi người cũng có thể chọn lựa “cái hay” khác nhau, cho riêng mình. Câu chuyện ông Na-tha-na-en là một bằng chứng, cũng là một bài học đáng gẫm suy: “cái hay” cho tôi là cái hay do tôi chọn hoặc cái hay tôi phải theo?
Mời Bạn: Lắm lúc ta cũng nghĩ rằng Chúa có gì hay đâu, Hội Thánh có gì hấp dẫn đâu? Cuộc sống vẫn còn vất vả, gia đình vẫn khổ đau, thế giới vẫn chiến tranh, Cuộc đời trở nên như một thách đố và Tin Mừng dường như chẳng giải quyết được gì? Công trình cứu độ của Chúa chưa thành công… ! Ta rơi vào tâm trạng hoài nghi, hờ hững và dửng dưng với tất cả, kể cả đức tin, tôn giáo và Thiên Chúa.
Chia sẻ: “Hãy đến mà xem” để lấy lại  niềm tin và hy vọng. Chúa không cho tiền bạc, chẳng làm phép lạ linh tinh, Tin Mừng không đem lại giải pháp kinh tế tích cực nào; nhưng Ngài là “Đường, là Sự thật và là Sự Sống” đích thực – “bỏ Ngài con biết theo ai”. Vậy, chỉ cần đứng dậy, bước ra khỏi mình và “đến mà xem”: Gặp Chúa để gặp chính mình.
Sống Lời Chúa: Dành vài phút suy niệm và cầu nguyện trước Hang đá.

Cầu nguyện: Lạy Hài Nhi Giê-su, xin cho con biết luôn đến thờ lạy Chúa để tìm thấy “cái hay” đích thực. Amen.

THÁNH SIMÊON ẨN TU
(388-457)
Thánh Simêon sinh năm 388 tại một làng nhỏ thuộc miền Sian. Miền này nằm giữa hai miền Ciliêxi và Syria. Vì gia cảnh nghèo túng nên, ngay từ bé, Simêon đã phải làm những việc vặt trong nhà và đi chăn chiên giúp cha mẹ. Dù việc làm vất vả, cậu vẫn cứ vui vẻ vâng lời, nêu gương cho các em trong gia đình. Simêon sớm có một tâm hồn đạo đức, cậu thích nghe truyện các thánh, ái mộ việc đọc và suy niệm Phúc âm. Với đời sống đơn sơ và thánh thiện, Simêon là một đóa hoa đẹp mắt muôn người và hài lòng Thiên Chúa. Chúa nhân từ không muốn để bông hoa của Người phất phơ giữa thế gian, Người muốn đem trồng vào một nơi mầu mỡ, hầu vươn cao trên đường thánh thiện.
Một hôm, cùng gia đình đi xem lễ, Simêon bồi hồi thổn thức khi nghe đọc bài Phúc âm nói về tám mối phúc thật Chúa giảng trên núi. Biết rằng Chúa muốn gọi mình, Simêon từ giờ ấy quyết bỏ thế gian dâng mình cho Chúa để hoặc làm linh mục, hoặc làm tu sĩ. Nhưng để biết rõ ý Chúa hơn, ngài cấm phòng, cầu nguyện, và suy ngẫm lời của Chúa. Ngày kia đang sốt sắng cầu nguyện trong nhà thờ kính các thánh tử đạo, ngài được Chúa hiện ra và dậy phải đi tu dòng.
Lòng đầy vui sướng, Simêon trở về lĩnh ý mẹ và thu xếp xin nhập dòng, gần tỉnh lỵ Sian.
Sống trong dòng, mỗi ngày ngài một thêm nhân đức, nhất là nhân đức khó nghèo và vâng lời. Ngài nêu gương mẫu cho mọi người trong nhà dòng; ai ai cũng quý mến ngài như một bông hoa lạ nực hương Thiên Chúa gởi đến. Dầu vậy, sau ba năm, vì cảm thấy ơn Chúa gọi sống ở môi trường khác, thánh nhân bèn đến xin bề trên cho phép xuất dòng để nhập cộng đồng các thầy ẩn tu tại sa mạc Têlêđa.
Đứng đầu cộng đoàn này là thầy Hêliêđôrê. Các thầy sống rất sốt sắng và nhân đức, đã gây được nhiều ảnh hưởng truyền giáo cho xứ Syria. Nhưng trổi vượt hơn cả là Simêon, nhất là về phương diện ăn chay và hãm mình. Đời sống của ngài đã vượt mức luật cộng đồng: trong khi các thầy hai ngày ăn một bữa thì thánh nhân đã có lần nhịn suốt tuần không ăn uống gì. Ngài còn dùng giây bằng vỏ cây cọ rất nhỏ thắt mình cho lẳn vào thịt. Thấy việc ăn chay và hãm mình của ngài quá lạ lùng không hợp với luật chung đã định, lại sợ rằng các thầy khác sẽ hiểu lầm và bắt chước cách trái ý Chúa, nên bề trên cầu nguyện và tỏ ý cho Simêon rút lui khỏi cộng đồng, bề trên cho phép thánh nhân tự ý chọn một nơi thanh vắng trong sa mạc, ở đó ngài sẽ được tự do thực hiện lòng sốt mến và tránh khỏi dị nghị của mọi người. Vâng lời bề trên, Simêon một lần nữa lên đường theo tiếng Chúa.
Sau một thời gian lưu lạc trong sa mạc, quanh thành Antiôkia, Simêon dừng lại ở một ngọn núi thuộc miền Tennétxinh. Ngài sống ở đó ba năm trong một túp lều cột tre mái cỏ. Được ơn Chúa Thánh Linh thôi thúc, thánh nhân khai mạc nếp sống mới bằng một mùa chay hoàn toàn nhịn đói. Ngài hãm mình như thế để bắt chước tinh thần hy sinh khắc khổ của Chúa Giêsu. Lễ phục sinh năm ấy, tình cờ một linh mục đi qua, thấy ngài lạc trí nằm dài trên đất khô.
Sẵn Mình Thánh mang theo và biết ngài là một tín hữu đầy ơn Chúa, linh mục bèn cho chịu lễ. Ôi lạ lùng thay, vừa lãnh nhận Bánh Thánh, ngài hồi tỉnh, nét mặt biến sắc và mạnh khoẻ lại như người thường. Theo sử gia Thêôđôrê, ngài lả đi là vì đã nhịn đói suốt bốn mươi ngày, tuần đầu tiên ngài còn gượng đứng để cầu nguyện, tuần thứ hai ngài ngồi, và tuần thứ ba trở đi, ngài nằm trên đất. Tới lễ phục sinh khi vừa đuối sức lả đi thì Mình Thánh Chúa đến ban thần lực lại cho ngài. Cũng theo sử gia, thánh nhân giữ chay như thế suốt 28 năm, nghĩa là cho tới lúc tuổi đã vềø già mới thôi.
Không lấy thế làm đủ, Simêon còn muốn tìm một nơi thanh vắng hơn để tự do cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, ngài liền trèo lên ngọn núi cao, ẩn mình trong hốc đá để cầu nguyện đêm ngày. Tại đó ngài thuê người ta làm một xích sắt dài độ mười thước: một đầu xích buộc vào chân phải, còn đầu kia gắn chặt vào tảng đả. Làm như thế ngài muốn tự giam mình không cho bước ra khỏi giới hạn đã định. Ít năm sau, tiếng nhân đức ngài đồn vang khắp miền Tennétxinh và người ta lũ lượt kéo đến thăm con người có những cách hãm mình kỳ dị đó. Đức Giám mục thành Antiôkia là Mêlét, có tiếng khôn ngoan tài trí cũng đến thăm ngài nhiều lần. Nhờ lời cầu nguyện và phép lạ ngài làm, nhiều lữ khách được khỏi bệnh. Vì thế ai nấy cố gắng để được chạm đến thân xác hay đồ dùng của ngài, và họ kính ngài như vị thánh sống 
Thấy người ta tôn kính mình thái quá, ngài hằng xin Chúa dạy cách sống thế nào hầu thêm khiêm nhường hơn. Được Chúa soi sáng, ngài liền nghĩ đến cách sống trên một cột trụ. Cột này cao độ chín thước, trên đóng một chiếc bục vừa một người ở, không lợp mái, không làm vách, chỉ chắn vây bốn hàng rào thưa. Suốt 37 năm ngài sống lộ thiên như thế. Nhiều người phải bỡ ngỡ trước lối sống kỳ lạ ấy. Ngài không ngồi cũng không nằm, mà suốt ngày chỉ đứng, quỳ hay cúi cầu nguyện và suy ngắm, ngài có thói quen cúi mình sát đất mà thờ lạy Chúa rất nhiều lần mỗi ngày.
Nhờ lời cầu nguyện và suy ngắm, thánh Simêon hiểu sâu xa lời Kinh Thánh. Vì thế mỗi khi người ta tuốn đến thăm viếng ngài dưới chân cột, ngài không quên cắt nghĩa hoặc nhắc bảo cho họ giới răn của Thiên Chúa và sứ mệnh của người tín hữu. Thánh nhân còn chỉ cho họ thấy sự giả dối và giòn mỏng của thế gian, hầu nâng trí họ ngưỡng mộ đời sống vĩnh cửu là hưởng kiến Thiên Chúa trên trời. Nếu khách đến thăm là dân ngoại, ngài giảng cho họ biết bỏ tà thần mê tín, trở về làm con Thiên Chúa. Ngoài ra thánh nhân còn lấy lời dịu ngọt yên ủi những người bị hà hiếp, gặp tai nạn, lấy lẽ phải bầu cử cho các phạm nhân. Ngài cũng làm nhiều phép lạ chữa nhiều người bênh tật. Quả thế, vì lời khuyên răn và nhân đức của ngài mà ông thiï trưởng thành Antiôkia đã bỏ mức thuế bất công mà ông đã ấn định cho các nhà tiểu công nghệ. Lần khác, ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi chữa bệnh bất toại cho một tên nô lẹâ và giàn xếp với gia chủ cho y được phóng thích.
Chứng kiến đời sống khắc khổ và đầy lòng bác ái của ngài, lớp trí thức trong thành đem lòng kính phục, không còn dị nghị chê bai đời sống của ngài. Các thầy dòng Ai Cập, trước kia bất phục cách sống của ngài, nay lại đem lòng ái mộ và noi gương bắt chước. Dân chúng, vì cảm kích tinh thần hy sinh, chí tông đồ và đời sống cao đẹp của ngài, tuốn đến thăm viếng và kể cho nhau nghe cách sống của ngài. Tại Rôma, ngay khi ngài còn sống, dân chúng đã vẽ ảnh trưng bầy trong gia đình. Vì thế, dù sống trên cột trụ và mang tên là vị tu hành ở cột, thánh Simêon vẫn xứng đáng là vị tông đồ của Phúc âm vì lời rao giảng và nhất là vì gương sáng của đời sống.
Tuy nhiên, Thiên Chúa còn muốn triều thiên vĩnh phúc của thánh nhân rung rinh nhiều hạt ngọc hy sinh: Vì thế, Chúa để cho ngài phải chịu một thứ bệnh ung thư rất đau đớn về cuối đời. Và đến tháng 10 năm 457 Thiên Chúa đem linh hồn đầy tớ trung tín của Người về thiên đàng. Ngài hưởng thọ 78 tuổi. Được tin thánh nhân qua đời, dân thành sửng sốt chạy đến xúm quanh vừa khóc vừa cầu nguyện. Đáng chú ý nhất là Đức Giám mục Mactirio và tổng trấn Ađaburiô cùng đến với 500 lính. Các ngài đem quân đến mục đích giữ xác thánh nhân, không cho dân đụng đến, đồng thời giữ trật tự trong buổi rước xác thánh về nhà thờ chính toà thành Antiôkia. Cuộc rước vô cùng long trọng; người đông như nước chảy, cờ xí rợp trời và ca nhạc tưng bừng như ngày hội.
Xác thánh Simêon được mai táng trong nhà thờ chính toà. Dần dần vì lòng sùng mộ ngài, người ta đã xây cất nhiều nhà thờ, nhà dòng để dâng kính ngài. Với đời sống khắc khổ, chí tông đồ và tinh thần hy sinh bác ái, thánh Simêon quả xứng đáng nhận phần thưởng vinh phúc trên trời và được Giáo Hội tôn phong bậc hiển thánh. Ở Việt Nam, từ xưa vẫn gọi ngài là thánh Simong Cột.



Chiếc Áo Rách

Một linh sư Ấn giáo nọ rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử. Nhận thấy rằng người đệ tử không cần đến sự dìu dắt của ông nữa, cho nên ông mới bỏ mặc anh trong túp lều tranh rách nát bên cạnh một bờ sông. Một buổi sáng, khi thức dậy, người đệ tử xuống dòng sông thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếc áo rách rưới của mình. Ðây là tài sản duy nhất của anh tạ
Ngày nọ, anh đau đớn vô cùng khi nhận ra chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn tả tơị Không còn cách nào nữa, người đệ tử đành phải vào làng gõ cửa để xin một chiếc áo khác. Cái áo lần nữa cũng bị chuột gặm nát. Anh mới xin được một con mèọ Lần này anh khỏi phải lo lắng về mấy con chuột nữạ Nhưng không xin áo mặc, thì người đệ tử cũng phải xin cơm, bánh mà thôị
Ngày ngày phải vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một thứ gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, cho nên anh mới tìm cách tậu cho bằng được một con bò để lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò thì cũng phải có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh còn tự mình cắt cỏ cho bò ăn. Về lâu về dài, nhận thấy không còn thì giờ cho sự cầu nguyện nữa, cho nên anh đành phải thuê người cắt cỏ cho bò. Bò càng ngày càng sinh sản ra nhiều, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Không mấy chốc, mảnh đất xung quanh túp lều của anh đã biến thành một nông trạị Con người đã một thời muốn bỏ đi tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ nay nghiễm nhiên trở thành một chủ nông trại giàu có. Có tiền, có mọi sự, cho nên anh cũng muốn có người chia sẻ công việc của anh. Anh đành phải cưới vợ. Và không mấy chốc, anh đã trở thành một trong những chủ nông trại giàu có nhất trong làng.
Vài năm sau, khi có dịp trở lại thăm ngôi làng cũ, vị linh sư đã một thời dẫn dắt anh, ngạc nhiên vô cùng vì thay cho túp lều nghèo nàn bên bờ sông, nay là cả một cơ nghiệp đồ sộ. Dò hỏi được tung tích của người chủ nông trại, vị linh sư mới lên tiếng hỏi người đệ tử của mình: "Thế này nghĩa là gì hả con?". Người đệ tử mới trả lời: "Có lẽ thầy không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này hiện hữu là cũng chỉ vì con đã không làm cách nào để giữ được chiếc áo rách".
Vì chén cơm manh áo, người ta có thể đánh mất lý tưởng của mình. Vì chén cơm manh áo, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác. Vì chén cơm manh áo, người ta có thể chối bỏ niềm tin của mình. Ðó là mối hiểm nguy mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
  Ðầu một Năm Mới, tiến thêm một bước trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị trong cuộc sống của chúng tạ Xin Ngài ban thêm can đảm để trong khi mưu cầu của cải vật chất, chúng ta có đủ sức khước từ mọi hành động bất chánh, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian trá. Xin Ngài ban thêm lòng quảng đại để chúng ta biết mở rộng quả tim và đôi bàn tay để chia sớt, để san sẻ với mọi người khốn khổ.