Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

5 Phút cho Lời Chúa ngày 29/1/2018

Filled under:

CAO RAO DANH CHÚA
Kẻ trước kia đã bị quỷ ám ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. (Mc 5,20)
Suy niệm: Trước cảnh cả đàn heo trên hai ngàn con lao xuống Biển Hồ Ga-li-lê chỉ trong nháy mắt, dân làng miền Ghê-ra-sa, phần thì sợ hãi, phần thì tiếc của, đã mời Chúa “rời khỏi vùng đất của họ.” Trái lại, người trước đây bị quỷ ám, sau khi được chữa lành, đã “ra đi và rao truyền những gì Chúa đã làm cho anh.” Những người dân miền Ghê-ra-sa hẳn cũng nhận biết dấu lạ Chúa làm, nhưng điều đó chẳng đem lại cho họ mối lợi nào mà lại bị thiệt hại một khối tài sản không hề nhỏ. Họ coi người anh em đồng hương của họ có giá trị không bằng đàn heo. Còn người trước đây bị quỷ ám thì cảm nghiệm và xác tín dấu lạ Chúa làm là cho chính anh, để anh được chữa lành, để trả lại cho anh phẩm giá của một con người, và hơn nữa, phẩm giá của người môn đệ Chúa Ki-tô.
Mời Bạn: Nhận biết mình và anh chị em mình được Chúa yêu thương và cứu chuộc, chúng ta nhớ rằng mình được Chúa sai đi loan truyền Danh Chúa cho người khác. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải đi đâu xa, Người muốn chúng ta loan truyền danh của Người ngay giữa lòng đời chúng ta đang sống. Bạn có nhận ra những cơ hội để sống điều đó không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày tôi dành thời gian cầu nguyện, để cảm nhận ơn lành Chúa ban và để loan truyền cho tha nhân biết những việc kỳ diệu Chúa đã làm vì yêu thương nhân loại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con xác tín rằng Chúa vẫn luôn ở bên con, để con an bình, và luôn nỗ lực làm rạng danh thánh Chúa bằng đời sống Ki-tô hữu tốt lành của mình. Amen.


THÁNH MACARIÔ ẨN SĨ
(Thế KỶ IV)
Người ta được biết rất ít về quãng đời niên thiếu cũng như về gia cảnh của thánh nhân. Ngài sinh trưởng ở Ai Cập vào quãng đầu thế kỷ IV. Để khỏi lẫn với một vị thánh khác cũng có tên là Macariô, người ta đã tặng cho ngài biệt danh là Macariô trẻ, bởi lẽ ngài là người hậu lai trên đường tu nghiệp cũng như về niên tuế.
Lớn lên, Macariô làm nghề bán kẹo để lần hồi sinh sống. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà thương gia và những người bán tạp hóa đã chọn ngài làm " đấng thánh Bảo trợ ".
Ngày tháng trôi qua, Macariô rất vui với cuộc đời nghèo nàn,với cái nghề bán kẹo rong đó. Cho mãi đến năm bốn mươi tuổi, người trung niên ấy mới cảm thấy khát vọng sống cuộc đời thánh thiện hơn. Bên tai ngài như văng vẳng nghe tiếng mời gọi của núi rừng Ai Cập, nơi mà những tâm hồn đạo đức, những bậc thầy trên đường thiêng liêng thời ấy thường thích tìm đến để hòa mình trong cảnh thiên nhiên, hầu dễ nâng tâm hồn lên với Chúa. Sau một thời gian suy nghĩ, Macariô cũng tìm đến chốn linh thiêng đó và dựng lều ở vùng hoang địa Nitri và Cellule để bầu bạn với những tâm hồn cùng một chí hướng. Nơi đây, mỗi người sống trong căn lều riêng của mình, trừ ngày thứ bẩy và chủ nhật là có hội nhau để dâng lễ và dự các giờ kinh chung. Ngày ngày các vị thường triền miên trong lời kinh cầu nguyện và suy niệm. Ngoài ra các ngài cũng có làm thủ công như đan lát hoặc dệt chiếu.
Ông Pallatiô, một tác giả chuyên viết truyện các vị ẩn tu, đã đích thân đến gặp và sống với Macariô ở đây khi ngài đã về già. Vì thế ông có dịp quan sát và biết nhiều về những tập tục và nếp sống đạo hạnh của các vị tu rừng. Theo Pallađiô chúng ta biết Macariô có thụ phong linh mục và đã gây được nhiều ảnh hưởng đối với người chung quanh.
Lòng đạo đức của các ngài đã vươn tới một mức xả kỷ và khổ hạnh lạ thường. Không thể tường thuật lại hết được những gương hy sinh và lòng đạo đức của các ngài. Sau đây chỉ là một gương mẫu tiêu biểu.
Có một ngày người ta đem đến cho Macariô một chùm nho chín mọng. Vừa cầm chùm nho trong tay, Macariô liền nghĩ ngay đến ông bạn láng giềng đang ốm cần đến trái nho ngon ngọt để bổ dưỡng. Nghĩ rồi, Macariô liền đem biếu thầy ốm đó. Thầy này lại chuyền ngay sang cho thầy bên cạnh vì nghĩ rằng thầy đó cần hơn mình. Và cứ như thế, chùm nho lần lượt được chuyền qua tay bao nhiêu người, để rồi cuối cùng lại trở về với thầy Macariô mà vẫn còn nguyên vẹn. Thầy Macariô nhìn chùm nho, lòng rưng rưng cảm động vì những gương hy sinh quảng đại của những tâm hồn đầy lòng mến Chúa.
Riêng phần ngài, với một tinh thần ganh đua trong sạch, ngài còn thực hiện những công việc hãm mình quá sức như kiêng ăn nhịn uống lâu ngày, hoặc hành hạ thân xác bằng cách dầm mưa dãi nắng, chịu nóng bức ban ngày và rét lạnh ban đêm. Đến sau vì sợ hóa điên có thể cản trở việc tiến đức, ngài buộc lòng phải giảm bớt những hình khổ ấy một phần. Một lần kia khi ngài đang đọc kinh trong lều, thình lình ngài bị một vật gì đốt rất buốt ở chân. Với một cử chỉ phản xạ tự nhiên, ngài lấy tay đập vào chỗ bị đốt, thì ra một con muỗi đồng kếch sù đã bị đập nát. Thấy vậy, ngài rất hối hận vì cử chỉ tàn bạo đó. Lập tức ngài cởi áo đi đến chỗ đồng lầy có nhiều thứ muỗi đó để cho chúng dầy vò và xâu xé xác mình bù lại. Kết quả là thân xác ngài bị sưng vù và tím bầm như kẻ bị chứng phong.
Đến năm 349, vì nghe biết ở Taben dưới ảnh hưởng cúa Pacômiô (Pacome) các tu sĩ ở đó đã được sống theo một quy luật rất nghiêm khắc và chặt chẽ, Macariô liền cải trang làm một người thợ đến gặp Pacômiô và thưa với ngài rằng:
"Lạy thầy, xin cho tôi được vào tu viện của thầy vì tôi muốn đi tu để làm tu sĩ". Pacômiô trả lời: "Bác đến muộn quá sợ rằng không thể theo kịp được những khó nhọc như các thầy, vì anh em ở đây sống đời khổ hạnh lắm bác ạ ". Rồi ngài cứ ngơ đi và để Macariô đứng như thế ở cửa tới bảy ngày. Macariô không bỡ ngỡ chút nào vì biết rằng đó chỉ là một thử thách cho những ai muốn vào dòng. Như một tượng đá, Macariô đứng đó không ăn uống chi trong suốt tuần lễ.
Cuối cùng tu viện trưởng Pacômiôi chấp thuận và cho Macariô nhập dòng.
Mùa chay đến, nhà dòng vốn mở cuộc thi đua hãm mình: các thầy ai nấy tùy lực và tùy tâm mà ăn chay, hãm mình.
Macariô đem sẵn những lá gồi đã ngâm nước, rồi tìm một góc nhà thanh vắng để đứng ở đó và đan lát. Ngài cứ đứng và làm việc, luôn tay như thế suốt 40 ngày, đồng thời kiêng ăn uống, chỉ trừ ngày chủ nhật ngài mới chịu ăn một vài lá rau cải bắp mà thôi. Không lúc nào ngài rời tay đan lát; còn tâm trí thì luôn luôn kết hợp với Chúa. Đôi mắt ngài đăm chiêu như hằng nhìn thấy những sự cao xa trên trời. Các tu sĩ ai nấy kinh ngạc khi thấy Macariô nhiệm nhặt quá như vậy. Họ đến trình với bề trên: "Thưa cha, cha làm khổ chúng tôi vì cha mang đến cho chúng tôi một cái người không xác kia. Xin cha hoặc đuổi ông ấy đi hoặc là để chúng tôi giải tán". Pacômiô liền cầu nguyện để xin ơn soi sáng, và được biết Macariô nổi tiếng nhiệm nhặt và khắc khổ thật. Nhưng vì sợ Macariô nên cớ vấp phạm cho các thầy, Pacômiô buộc lòng phải mời Macariô dọn đi nơi khác. Khi chia tay, Pacômiô còn khẩn khoản xin Macariô luôn nhớ cầu nguyện cho mình.
Cũng theo lời của Pallađiô, Macariô được Chúa ban quyền làm nhiều phép lạ, nhất là những phép lạ đối với ma quỷ. Dầu vậy nhà tu hành nhân đức đó cũng không tránh khỏi những quyến rũ của tà thần. Một ngày kia quỷ xui ngài bỏ rừng để về Rôma giúp đỡ bệnh nhân trong các bệnh viện. Vì biết đó cũng chỉ là mưu chước của quỷ muốn cho ngài mắc mồi danh vọng, thánh nhân đã nằm dài ra trên sàn nhà của mình và kêu: "Ngươi có sức thì cứ lôi ta đi; còn ta, ta cương quyết không rời khỏi đây ". Ma quỷ vẫn không chịu thua, nhưng chúng luôn thay đổi chiến lược để tấn công.
Thánh nhân cũng chẳng chịu lép vế: ngài lấy một thúng to xúc đầy cát rồi ì ạch vác đi trong rừng. Một tu sĩ thấy vậy đến xin vác đỡ nhưng ngài nói: "Thầy để mặc tôi, tôi làm như thế để quấy rối kẻ quấy rầy tôi đấy ".
Cả đến những giống vật cũng được nhờ ân huệ của ngài. Panuy, môn đệ của thánh nhân một ngày kia đã kể cho Pallađiô nghe câu chuyện thánh nhân chữa đã một con vật. Một hôm có một con linh cẩu cõng con nhỏ của nó bị mù đến đặt dưới chân Macariô. Thánh nhân cầm lấy con vật nhỏ đáng thương và chữa nó khỏi mù. Hôm sau để tỏ lòng biết ơn, con linh cẩu mẹ đã tha đến cho ngài một tấm da cừu mà ngài sẽ dùng làm áo mặc mãi cho đến lúc chết.
Càng được ơn Chúa, thánh nhân càng ra sức ăn ở thánh thiện và khinh rẻ mình hơn. Chính Pallađiô đã có lần tò mò ngồi bên cửa phòng của thánh nhân để nghe xem ngài nói và làm gì bên trong. Càng quan sát, Pallađiô càng cảm phục con người thánh thiện và khắc kỷ đó. Thấy ngài thánh thiện và nhân đức như thế mà mình thì chẳng tấn tới chút nào, Pallađiô nản lòng thối chí. Ông tìm đến với Macariô để bàn hỏi và xin lui về thế gian tìm con đường khác. Thánh nhân ôn tồn khuyên: Thầy đừng để mình ngã thua mưu chước của tên cám dỗ. Thầy cứ mạnh dạn nói với nó rằng: "Tình yêu Chúa Giêsu không cho phép ta bỏ đây. Ta nhất định ở lại để làm đẹp lòng Ngài ".
Một lần khác, cùng với Macariô xứ Ai Cập bơi thuyền trên sông; một con thuyền khác cũng rẽ sóng bơi theo. Mấy viên võ quan trên thuyền sau thấy hai ông già vẻ mặt hồn nhiên sung sướng liền nói nhỏ với nhau: "Mấy anh trông kìa, hai lão già nghèo xác sơ mà sống vui vẻ không?" Macariô cũng đáp lại một cách hài hước: "Phải, các ông nói đúng đấy, chúng tôi là Macariô (tiếng Ai Cập Macariô có nghĩa là hạnh phúc) thì sao lại không sung sướng. Nhưng chúng tôi có được hạnh phúc là vì đã khinh chê của đời; còn các ông, trái lại, khổ sở là tại cứ bám lấy của cải và làm nô lệ chúng". Lời nói đó thành thực và có sức cảm hóa lạ thường, đến nỗi sau này một người trong bọn họ đã về phân phát hết của cải rồi đến xin làm môn đệ thánh nhân.
Đến năm 349, vì lời xui xiểm của Lucius, một Giám mục thuộc lạc giáo Ariô, cai quản giáo phận Alexanđria, thánh nhân bị trục xuất khỏi Ai Cập và gặp nhiều gian truân vì trung thành với đức tin công giáo.
Ít lâu sau ngài từ trần, hưởng thọ gần 100 tuổi. Ngài đã lưu lại cho hậu thế nhiều gương sáng và hương thơm nhân đức. Giáo hội đã kính nhớ và ghi tên ngài vào sổ bộ các thánh ngày 29 tháng giêng.


Ðứng Núi Này Trông Núi Nọ

Một tác giả nọ đã kể lại một câu chuyện ngụ ngôn về con lừa, con rùa và một con ruồi mà tuổi thọ chỉ vỏn vẹn một ngày như sau: Nhận thấy kiếp sống của mình quá vắn või, con ruồi đã than thân trách phận như sau: "Nếu tôi có được nhiều thì giờ hơn, thì có lẽ mọi sự sẽ dễ dàng hơn. Các bạn cứ nghĩ xem: chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, tôi phải sinh ra, phải lớn lên, phải học hỏi kinh nghiệm, phải vui hưởng cuộc sống, phải đau khổ, phải già rồi cuối cùng phải chết? Tất cả chỉ diễn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ". 
Con lừa quanh năm ngày tháng chỉ bị đày đọa trong những việc nặng nhọc thì lại than vãn: "Giả như tôi chỉ có 24 tiếng đồng hồ để sinh ra, để sống thì có lẽ tôi sẽ hạnh phúc hơn, bởi vì cái gì tôi cũng nếm thử được một chút và cái gì tôi cũng chỉ phải chịu đựng trong một khoảnh khắc". 
Ðến lượt con rùa, nó phát biểu như sau: "Tôi không hiểu được các bạn. Tôi đã sống được 300 năm nhưng tôi vẫn không thấy đủ giờ để kể hết những kinh nghiệm tôi đã trải quạ Khi được 200 tuổi, tôi chỉ ước mơ được chết cho xong. Tôi thương hại chú ruồi, nhưng tôi lại ghen với ông bạn lừa". 
Sau khi đã kể cho nhau nghe kinh nghiệm sống của mình, xem chừng như không thấy ai thỏa mãn kiếp sống của mình. Người thì than phiền sống quá ngắn, người thì ngán ngẩm vì sống quá lâụ Cuối cùng, ba chú mới rủ nhau đến vấn kế con nhện, vì con nhện vốn được xem là một con vật khôn ngoan. Sau khi nghe mọi lời kể lể, con nhện mới dõng dạc ban cho mỗi con một lời khuyên. Với con rùa, nó nói như sau: "Hỡi lão rùa già, đừng than phiền nữạ Hỏi thử có ai được giàu kinh nghiệm cho bằng lão chưả". 
Quay sang con ruồi, con nhện ra lệnh: "Hỡi chú ruồi, chú cũng đừng than thân trách phận nữạ Hỏi thử có ai có nhiều trò vui cho bằng chú không?". 
Với chú lừa, thì xem ra lời cảnh cáo của con nhện có vẻ nặng nề hơn cả: "Còn đối với ông bạn lừa, tôi không có lời khuyên nào cho ông bạn cả. Oâng bạn là người bất mãn suốt đờị Oâng bạn vừa muốn được sống lâu như lão rùa lại vừa muốn sống ngắn ngủi như chú ruồị Trời nào có thể làm vừa lòng chú". 
Câu chuyện ngụ ngôn trên đây có thể nói lên sự bất mãn thường xuyên trong tâm hồn của con ngườị Thất bại hay thành công, nghèo hèn hay sang trọng, dốt nát hay thông minh, bệnh tật hay khỏe khoắn. Xem chừng như không bao giờ con người cảm thấy hoàn toàn hài lòng với chính mình, với người khác và với cuộc sống. con người dễ dàng đứng ở núi này nhìn sang núi nọ. Tựu trung, có lẽ sự bất mãn là biểu hiện của một thiếu sót lớn lao trong tâm hồn con người: đó là thiếu sót Tình Yêụ Có tình yêu, người ta sẽ không còn bất mãn. Có tình yêu, xem chừng người ta cũng không màng đến thời gian. Một tác giả nào đó đã nói: "Thời gian qúa chậm đối với những kẻ chờ đợi và sợ hãị Thời gian lại quá dài đối với những kẻ than phiền. Nhưng với những người đang yêu, thì thời gian không còn nữa". 
Phải chăng tình yêu không là liều thuốc để chữa trị căn bệnh bất mãn trong lòng ngườỉ Có chấp nhận chính mình, có yêu thương chính mình, chúng ta sẽ không còn phải than thân trách phận nữạ Có yêu thương tha nhân, chúng ta sẽ thấy được tha nhân là nguồn hạnh phúc của mình. Có yêu đời, chúng ta mới đời dễ thương.