Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2015

Cách phân biệt món ăn dùng phẩm màu hóa học

Filled under:

Phẩm màu nhân tạo được bổ sung vào thực phẩm để có màu sắc đẹp, tăng tính hấp dẫn với người tiêu dùng, hoàn toàn không có giá trị về mặt dinh dưỡng, thậm chí nếu lạm dụng có thể gây bệnh.
Phẩm màu được chia làm hai loại chính:
- Phẩm màu tự nhiên: Là các chất màu được chiết xuất hoặc chế biến từ nguyên liệu hữu cơ (thực vật, động vật) sẵn có trong tự nhiên. Ví dụ, Caroten tự nhiên được chiết xuất từ các loại quả có màu vàng, Curcumin được chiết xuất từ củ nghệ, màu Caramen được chế biến từ đường...
Nhóm phẩm màu nguồn gốc tự nhiên có nhược điểm là độ bền kém, sử dụng với lượng lớn nên giá thành sản phẩm cao...
Cách phân biệt món ăn dùng phẩm màu hóa học 1
  Sự khác biệt của thực phẩm khi dùng màu tự nhiên và phẩm màu nhân tạo. Ảnh: Nguyễn Anh Thư.
- Phẩm màu tổng hợp hoá học: Là các phẩm màu được tạo ra bằng phản ứng tổng hợp hoá học. Ví dụ Amaranth (đỏ), Brilliant blue (xanh), Sunset yellow (vàng cam), Tartazine (vàng chanh)...
Các phẩm màu tổng hợp thường đạt độ bền màu cao, với một lượng nhỏ đã cho màu đạt với yêu cầu đặt ra, nhưng có thể gây ngộ độc nếu dùng loại không nguyên chất, không được phép sử dụng trong thực phẩm.
Nhiều người, nhất là cơ sở chế biến thực phẩm chuộng phẩm màu hóa học vì chúng thường đem lại màu sắc đẹp cho món ăn, không bị bay màu trong quá trình chế biến và giúp cho món ăn bắt mắt, hấp dẫn hơn, không dễ bị hỏng.
Phẩm màu hóa học thường rất rẻ, chỉ khoảng 25.000-50.000 đồng/kg với loại không có nhãn mác xuất xứ từ Trung Quốc. Rất dễ mua các loại phẩm màu này, tất cả đều được bày bán tràn lan ở chợ, chúng còn dễ sử dụng và không bao giờ bị hư.
Để phân biệt, người tiêu dùng nên lưu ý thực phẩm được nhuộm màu hóa học thường có màu sắc bắt mắt, sặc sỡ nhưng trông kém tự nhiên hơn đồ ăn dùng màu tự nhiên.
Tác hại của màu thực phẩm hóa học
Những thức ăn có chứa phẩm màu trong danh mục được phép sử dụng làm phụ gia thực phẩm của Bộ Y tế, dưới mức giới hạn dư lượng cho phép thì không gây ảnh hưởng cho sức khoẻ. Tuy nhiên, nếu lạm dụng phẩm màu, hoặc chạy theo lợi nhuận, sử dụng các phẩm màu ngoài danh mục cho phép để chế biến thực phẩm (đặc biệt là các phẩm màu tổng hợp) sẽ rất hại, có thể gây ngộ độc cấp tính, tích luỹ lâu dài có thể dẫn đến ung thư, như tương ớt có phẩm màu đỏ Sudan và hạt dưa nhuộm phẩm màu đỏ Rhodamine B.
Cách phân biệt món ăn dùng phẩm màu hóa học 2
  Những lọ phẩm màu bắt mắt, không rõ nguồn gốc, không ghi thành phần... được bày bán phổ biến tại nhiều chợ. Ảnh: Nguyễn Anh Thư.
Tất cả màu thực phẩm nhân tạo độc hại đã bị Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ cấm từ lâu, nhưng có 5 loại vẫn tồn tại trong chợ Việt Nam là màu thực phẩm: Blue1, 2; Red 3; Green 3; và Yellow 6 - đây đều là những chất có thể gây ra ung thư khi thí nghiệm ở động vật.
Blue 1 và 2 được tìm thấy trong những thức uống giải khát như (trà, sữa, rượu, bia...), kẹo, đồ nướng và thức ăn cho thú cưng có mức nguy hiểm thấp nhưng nó liên quan đến ung thư ở chuột. Red 3 tạo ra màu đỏ anh đào, rượu cocktail, kẹo, đồ nướng, đã được chứng minh gây ra khối u tuyến giáp ở chuột. Green 3 có trong kẹo và thức uống giải khát, dù là ít sử dụng, gây ra ung thư bàng quang. Những cuộc nghiên cứu thấy rằng yellow 6 là chất hay được sử dụng nhất để cho vào thức uống giải khát, xúc xích, gelatin, đồ nướng và kẹo. Yellow 6 có thể gây ra khối u ở thận và tuyến thượng thận.
Hiện màu công nghiệp vẫn được dùng khá phổ biến trong một số thực phẩm cho trẻ em như thạch, nước trái cây, đồ ăn nhanh, kẹo bánh... Một nghiên cứu trước đây của Cục Quản lý tiêu chuẩn thực phẩm Anh còn cho thấy, việc dùng thường xuyên thực phẩm có màu công nghiệp sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến trí tuệ của trẻ, khiến chỉ số IQ giảm ít nhất 5,5 điểm.
Cách thay thế phẩm màu hóa học
Khi chế biến thức ăn tại gia đình, tốt nhất là nên sử dụng các phẩm màu tự nhiên. Nếu sử dụng phẩm màu tổng hợp thì cần biết rõ đó là phẩm màu gì, có được phép sử dụng trong chế biến thực phẩm hay không. Không mua và không sử dụng các loại phẩm màu đóng gói lẻ không có nhãn mác, nguồn gốc không rõ ràng để chế biến thực phẩm.
Theo tiến sĩ Phan Thị Sửu, Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật An toàn Thực phẩm, Hội Khoa học Kỹ thuật An toàn Thực phẩm Việt Nam, để phòng ngừa tác hại của thực phẩm có nhuộm phẩm màu, người tiêu dùng cần chú ý nên dùng các chất màu tự nhiên (gấc, cà chua, ớt, cà rốt, dành dành, dâm bụt chua, nghệ, lá dứa thơm…). Các chất màu tự nhiên ngoài tác dụng tạo màu chúng còn có tính chống oxy hóa nên rất tốt cho sức khỏe.

Posted By Đỗ Lộc Sơn05:25

Kẻ Khôn Ngoan Ao Ước Có Tai Thính Để Nghe

Filled under:

Cha Gaetano Greco là Linh Mục Tuyên Úy nhà tù Casal del Marmo nằm ở vùng phụ cận Roma, thủ đô nước Ý. Cha đặc biệt phụ trách tinh thần cho các tù nhân vị-thành-niên. Cha là tu sĩ Dòng Ba Cappuccino Đức Bà Sầu Bi.
 Chính vì thao thức với cuộc sống côn-đồ vô-luân không bình thường của giới trẻ tù nhân mà Cha Gaetano Greco nghĩ ra một phương thế tuyệt vời. Cha thành lập Cộng Đoàn ”Borgo Amigò”. Cộng Đoàn tiếp đón các tù nhân vị-thành-niên được hưởng quy chế đặc biệt, nghĩa là có thể đền bù tội lỗi ngoài phạm vi nhà giam, trong một trung tâm cải huấn nhân đạo giống như Cộng Đoàn ”Borgo Amigò” chẳng hạn.
 Cộng Đoàn được thành hình nhờ số tiền 8 phần ngàn của tín hữu Công Giáo Ý đóng góp hàng tháng cho Giáo Hội Công Giáo Ý. Hội Đồng Giám Mục Ý trích ra số tiền nhỏ để tài trợ cho dự án của Cha Gaetano Greco. Các bạn trẻ tù nhân khi được tiếp rước vào Cộng Đoàn phải chấp nhận thi hành nghiêm chỉnh kỷ luật. Đây chính là nơi cống hiến ”cơ may” cho các thiếu niên - lâm vào vòng tội phạm - tìm thấy ”lối thoát” an toàn để tạo dựng tương lai. Có người âu yếm đặt tên cho Cộng Đoàn là nơi chuyển tiếp từ ”Cạm Bẫy của tệ nạn mafia đến Đôi Cánh Cuộc Đời”.
 Xin trưng dẫn một trường hợp điển hình. Piero từng là thành viên Cộng Đoàn ”Borgo Amigò”. Chính Cộng Đoàn trao tặng Piero đôi cánh để bay cao sau khi trải qua chặng đường du-côn mất-dạy với đủ loại tội phạm lớn nhỏ. Hiện nay Piero lập gia đình, có một đứa con trai và một việc làm lương thiện. Thỉnh thoảng, khi có dịp, Piero luôn trở lại thăm các đồng bạn đang cải huấn nơi Cộng Đoàn.
 Mỗi khi nhắc đến các bạn trẻ từng sống nơi Cộng Đoàn ”Borgo Amigò” và ngày nay đang thành công trong cuộc đời, Cha Tuyên Úy Gaetano Greco không ngần ngại gọi đó là những cuộc ”sống lại”.
 Thật thế, kể từ ngày thành lập đến nay cách đây đúng 20 năm - năm 1995 - Cộng Đoàn ”Borgo Amigò” đã giúp cho không biết bao nhiêu thanh niên bước sang một khúc quanh mới, sau khi bị kết án vì những hành động vô luân bất chính trong lứa tuổi vị-thành-niên. Cộng Đoàm nằm ngoài vòng đai thủ đô Roma và thuộc giáo phận Porto-Santa Rufina. Bầu khí Cộng Đoàn vô cùng thân thiện, vì Tình Yêu là phương thuốc thần diệu để chữa lành các vết thương. Các bạn trẻ được phân chia làm các công tác trong Cộng Đoàn hoặc chăm sóc cây cối trong vườn. Tất cả khung cảnh sống trong Cộng Đoàn chỉ với chủ đích duy nhất là giúp bạn trẻ ý thức trách nhiệm về chính cuộc đời. Cộng Đoàn có chương trình huấn nghệ để các bạn trẻ sau khi rời Cộng Đoàn có thể tìm ra việc làm.
 Một trong những nét đặc thù của Cộng Đoàn là các sinh hoạt nghệ thuật. Các bạn trẻ được trau dồi nghệ thuật qua các sáng tác văn chương hoặc các buổi trình diễn văn nghệ. Về phương diện văn chương, Cộng Đoàn có chương trình ”Kể Một Câu Chuyện”. Qua chương trình, các bạn trẻ có thể bộc lộ tư tưởng tâm tình như phương thuốc chữa lành vết thương tâm linh. Chương trình ”Kể Một Câu Chuyện” hướng dẫn các bạn trẻ không dùng thứ ngôn ngữ bạo-động. Bởi vì, từ loại ngôn ngữ cộc-cằn thường đưa đến hành động vũ-phu!
 Nơi Cộng Đoàn ”Borgo Amigò” mỗi bạn trẻ theo đuổi chương trình văn hóa khác nhau. Có bạn đến trường học, sắp mãn bậc trung học và nghĩ đến chuyện ghi danh vào đại học. Các bạn trẻ khác theo các khóa huấn nghệ. Thông thường, thời gian các bạn trẻ tù nhân vị-thành-niên phải ở lại Cộng Đoàn ”Borgo Amigò” tương đương với thời gian bị giam nơi nhà tù. Khi thời gian giam cầm kết thúc, bạn trẻ có thể quyết định rời bỏ Cộng Đoàn, hoặc xin ở lại cho đến khi hoàn tất chương trình cần thiết hầu có thể bắt đầu một cuộc sống tự lập.
 Và để giúp cho các bạn trẻ sau khi hoàn tất lộ trình đền bù tội phạm, không bị ”cám dỗ” rơi vào nếp sống bất lương như trước, Caritas giáo phận Roma dự trù một căn nhà. Các bạn trẻ có thể đến ở miễn phí nơi đây đồng thời đi làm để có đủ tiền sinh sống.
  ... ”Kẻ lòng chai dạ đá cuối đời sẽ gặp bất hạnh, người thích nguy hiểm sẽ phải chết vì nguy hiểm. Kẻ lòng chai dạ đá sẽ bị ngàn nỗi ưu phiền đè nặng, người tội lỗi cứ chồng chất tội này lên tội kia. Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó. Người sáng trí để tâm nghiên cứu các ẩn dụ, kẻ khôn ngoan ao ước có tai thính để nghe” (Sách Huấn Ca 3,26-29).
 (”SOVVENIRE Periodico di Informazione sul Sostegno Economico alla Chiesa”, Anno 8, n.1, Aprile 2009, trang 6-7)
 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Posted By Đỗ Lộc Sơn05:10

Bài giảng CN 18B TN – Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Filled under:

 Bánh Trường Sinh

Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta phải đặt trong bối cảnh của nó.
Ðó là thời kỳ Ðức Giêsu đang được quần chúng ngưỡng mộ nhất:
Ngài đi đâu dân chúng cũng đông đảo ùa theo đến đó,
thậm chí họ còn muốn tôn Ngài lên làm vua khiến Ngài phải trốn đi.
Nhưng họ cũng vẫn tìm ra được chỗ Ngài và sáng hôm sau lại ùa tới vây quanh Ngài.
Và vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao quần chúng tuốn đến với Ngài như thế?
Thưa vì lợi lộc vật chất:
Chúa đã chữa nhiều bệnh tật: mù, què, câm, điếc,
cả kẻ chết Ngài cũng làm cho sống lại.
Hơn nữa, Chúa lại vừa mới làm một phép lạ bánh hóa nhiều.
Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá
mà biến ra cho đủ lương thực cho năm ngàn người ăn no.
Chắc là họ nhủ thầm:
Giá mà có ông này bên cạnh ta mãi thì ta chẳng bao giờ sợ đói khát,
cũng chẳng cần phải làm lụng cực nhọc mà vẫn luôn no đủ.
Chính vì có ý nghĩ như thế, cho nên họ mới định tôn Ngài lên làm vua.
Ðức Giêsu biết ý tưởng của họ nên trốn lên núi.
Nhưng sáng hôm sau gặp lại họ, Ðức Giêsu nói thẳng với họ:
"Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ,
nhưng các ngươi đã được ăn bánh no nê”
Đức Gêsu biết rõ tâm tư của họ,
họ đến với Ngài chỉ vì muốn được ăn bánh no nê như đã được ăn hôm trước.
Rồi Ðức Giêsu muốn đưa họ lên cao hơn
“Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời,là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi.”

Quả thật, con người chúng ta cần có những của ăn cho thể xác và những của ăn cho tinh thần.
Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ:
- Đói được người ta tôn trọng: không ai muốn bị coi là đồ bỏ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
- Đói được người ta chấp nhận: nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
- Đói những tương giao: không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
- Đói nguồn động viên: không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
- Đói niềm tin: ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng.
Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
- Đói hy vọng: bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
- Đói tình yêu: nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.[1]
Chúa Giêsu còn cho họ thấy ngoài cái đói cuả thể xác, cái đói của tinh thần còn có cái đói của tâm linh nữa.
Cái đói sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, đó là cái đói sự sống đời đời. Một cái đói mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được.
Đó là đói chân lý, chỉ có Ngài mới ban chân lý cho loài người.
Đó là đói tình yêu, chỉ có Ngài mới ban cho họ tình yêu vượt trên tội lỗi và sự chết.
Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn sự đói khát không xoa dịu được của tâm linh con người.
Và như trong bài đọc một hôm nay,
sách Xuất Hành còn nhắc lại việc Thiên Chúa ban manna từ trời rơi xuống nuôi dân Do Thái suốt quãng đường đi về Đất Hứa
và trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cho dân Do Thái biết manna mà Thiên Chúa ban cho cha ông họ trong sa mạc chưa phải là bánh thật mà chỉ là biểu tượng cho thứ bánh mà Thiên Chúa sẽ ban cho loài người.
Bánh thật ấy là bánh hằng sống.
Đức Giêsu đã khẳng định rằng bánh ấy chính là Ngài, khi Ngài nói với họ:
”Chính Ta là bánh ban sự sống.
Ai đến với Ta sẽ không hề đói.
Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”(Ga 6,35).
Đó chính là bí tích Thánh Thể mà mà Chúa Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta hôm nay.Amen.





[1] Viết theo Flor McCarthy


Posted By Đỗ Lộc Sơn05:06

Tin Mừng Chúa Nhật 18 Quanh Năm Năm B

Filled under:

Bài Ðọc I: Xh 16, 2-4. 12-15
"Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, toàn thể cộng đoàn con cái Israel kêu trách Môsê và Aaron, họ nói với hai ông rằng: "Thà chúng tôi chết trong đất Ai-cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như vầy?"
Chúa liền phán cùng Môsê rằng: "Ðây Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa: dân chúng phải đi lượm bánh ăn mỗi ngày, để Ta thử coi dân có tuân giữ lề luật của Ta hay không. Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel: ngươi hãy nói với họ rằng: 'Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê, như thế các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi'".
Chiều hôm ấy, có chim cút bay tới che rợp các trại, và sáng hôm sau có sương sa xuống quanh trại. Tới lúc sương tan trên mặt đất, thì thấy có vật gì nho nhỏ tròn tròn như hột sương đông đặc trên mặt đất. Con cái Israel thấy vậy, liền hỏi nhau rằng: "Man-hu", có nghĩa là: "Cái gì vậy?" vì họ không biết là thứ gì. Môsê liền nói với họ: "Ðó là bánh do Chúa ban cho anh em ăn".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 77, 3 và 4bc. 23-24. 25 và 54
Ðáp: Chúa đã ban cho họ được bánh bởi trời (c. 24b).
Xướng: 1) Ðiều mà chúng tôi đã nghe, đã biết mà tổ tiên đã thuật lại cho chúng tôi hay, chúng tôi sẽ kể lại cho thế hệ tương lai: đó là những lời khen ngợi và quyền năng của Chúa. - Ðáp.
2) Nhưng Người đã ra lệnh cho ngàn mây trên cõi cao xanh, và Người đã mở rộng các cửa trời. Người đã làm mưa man-na xuống để họ ăn, và Người đã ban cho họ được bánh bởi trời. - Ðáp.
3) Con người được ăn bánh của những bậc hùng anh; Người ban cho họ lương thực ăn tới no nê. Người đưa họ vào nơi thánh địa của Người, tới miền núi non mà tay hữu Người tậu sắm. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Ep 4, 17. 20-24
"Hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, tôi nói với anh em điều này, và chứng thực trong Chúa là anh em chớ ăn ở như Dân Ngoại ăn ở, chiều theo sự giả trá của tâm tư mình. Phần anh em, anh em không hề học biết Ðức Kitô như thế đâu, nhưng nếu anh em đã nghe biết Người và đã được thụ giáo trong Người, như sự chân thật trong Ðức Giêsu dạy, là anh em hãy khử trừ lối sống xưa kia, hãy lột bỏ con người cũ, đã bị hư theo những đam mê lầm lạc. Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 6, 24-35
"Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Caphar-naum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giê-su đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu".
Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Ðây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Ðấng Ngài sai đến".
Họ thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian".
Họ liền thưa Người rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi". Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Với phép lạ bánh hóa nhiều, Ðức Giêsu làm để nuôi đám dân đông đúc. Hôm sau họ lại đi tìm Ngài. Nhân cơ hội đó, Ðức Giêsu dạy cho họ ý nghĩa của việc tìm kiếm đích thực: đừng làm việc vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực cho hạnh phúc trường sinh.
Cuộc sống của chúng ta hôm nay, chúng ta cũng bôn ba vất vả về nhiều chuyện: Hết lo cơm ăn, lo áo mặc, lại lo cho có tiện nghi sang trọng. Chúng ta dành hết thời giờ sức lực tìm kiếm cuộc sống hôm nay, thế nhưng cuộc sống viên mãn mai sau thế nào, chúng ta lại chẳng mấy quan tâm.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải tìm kiếm điều gì mới là chính đáng.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cũng thưa lên với Chúa như đám dân chúng xưa: Chúng con phải làm gì để thực hiện những gì Thiên Chúa muốn?
Cuộc sống của chúng con hôm nay, tất cả đều là ơn lành của Thiên Chúa. Xin cho chúng con trong khi hưởng dùng lương thực đời này, biết tìm kiếm một lương thực vĩnh viễn. Và chỉ khi tìm thấy nguồn hạnh phúc muôn đời, chúng con mới được no thỏa. Chúng con có thể nói như thánh Augustinô: Hồn con hằng khát khao tìm kiếm, cho tới khi nghỉ an trong Chúa. Amen.

Posted By Đỗ Lộc Sơn04:27

5 Phút cho Lời Chúa 31/7/2015

Filled under:

CUNG KÍNH THỜ PHƯỢNG CHÚA 
“Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? ” (Mt 13,54)
Suy niệm: Sự quen thuộc dễ phát sinh thái độ khinh thường. Có người còn nghĩ rằng cho dù nó không gây ra thái độ đó, thì nó cũng lấy đi sự thán phục. Trong bài Tin Mừng, ta gặp trường hợp ngược lại: có những người đồng hương với Chúa Giê-su thán phục sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng, điều kỳ diệu qua phép lạ Ngài làm, nhưng không chấp nhận sứ điệp triều đại Cứu thế của Ngài (x. Lc 4,18-22) chỉ vì họ quá quen thuộc với lý lịch và gia thế của Ngài. Họ đánh giá Ngài qua dòng tộc, liên hệ gia đình, chứ không dựa trên chính bản thân Ngài. Coi thường bản thân người rao giảng, nên họ đã không nhận ra sứ điệp của người ấy. Họ đánh mất cơ hội nhận được ơn cứu độ từ người đồng hương quen thuộc của mình.
Mời Bạn: “Gần chùa gọi bụt bằng anh” có thể là thái độ của bạn, ngay cả trong việc thánh thiêng nhất là thờ phượng Thiên Chúa. Cười dỡn, nói chuyện ồn ào, chưa cung kính đủ khi ở trong nhà thờ, không sốt sắng dọn mình và cám ơn mỗi khi rước vị khách cao quý nhất của vũ trụ là Chúa Giê-su Thánh Thể... là vài thí dụ tiêu biểu cho thái độ bất xứng của tạo vật dành cho Đấng Tạo Hóa của mình.
Sống Lời Chúa: Dù quen thuộc với các nghi thức phụng vụ, tôi vẫn luôn giữ thái độ cung kính ở nơi thánh thiêng, cũng như sốt sắng, tôn kính Chúa Giê-su mỗi khi rước Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, chúng con xin lỗi Chúa vì sự lơ là, chưa quan tâm đến Chúa đủ mỗi khi rước Chúa. Xin tha thứ cho chúng con, và giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng, sốt sắng kết hiệp với Chúa trong giây phút trọng đại ấy. Amen.

Thánh I-nha-xiô ở Loyola (Y Nhã)
(1491-1556)
Vị sáng lập dòng Tên này đang trên đà danh vọng và quyền thế của một sĩ quan trong quân đội Tây Ban Nha thì một trái đạn đại bác đã làm ngài bị thương ở chân. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, vì không có sẵn các cuốn tiểu thuyết để giết thời giờ nên ngài đã biết đến cuộc đời Đức Kitô và hạnh các thánh. Lương tâm ngài bị đánh động, và từ đó khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Đức Kitô.

Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Đức ở Monserrat. Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Đức Maria thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Đức Mẹ.

Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Đa Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện. Chính trong thời gian hoán cải này ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, cuốn Những Thao Luyện Tâm Linh.

Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Rôma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây. Vì lo sợ cho tính mạng của ngài các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona. Tin tưởng rằng kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học ở Alcalá, Salamanca và Balê.

Vào năm 1534, lúc ấy đã 43 tuổi, cùng với sáu người khác (trong đó có Thánh Phanxicô Xaviê) ngài thề sống khó nghèo và khiết tịnh và tất cả cùng đến Đất Thánh. Các ngài thề quyết rằng nếu không thể ở đây thì sẽ dâng mình cho công việc tông đồ của đức giáo hoàng. Và đó là điều đã xảy ra. Bốn năm sau, Thánh Y Nhã hợp thức hóa tổ chức của ngài. Tu Hội của Đức Giêsu (Dòng Tên) được Đức Giáo Hoàng Phaolô III chuẩn nhận và Thánh Y Nhã được bầu làm bề trên đầu tiên.

Trong khi các bạn đồng hành được đức giáo hoàng sai đi truyền giáo thì Thánh Y Nhã vẫn ở Rôma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi, cho người tân tòng. Ngài thành lập Trường Roma (sau này là Đại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.

Thánh Y Nhã đích thực là một vị thần bí. Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo -- Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Kitô, Bí Tích Thánh Thể. Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên, ad majorem Dei gloriam -- "để Thiên Chúa được vinh danh hơn." Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội. Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Đức Thánh Cha vô điều kiện, vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà đức giáo hoàng đã sai đi để cứu rỗi các linh hồn.

Lời Bàn
Vào năm 1517, Luther đã niêm yết các đề án của ông lên cửa nhà thờ ở Wittenberg. Mười bảy năm sau, Thánh Y Nhã sáng lập một tu hội góp phần quan trọng trong việc chống lại sự cải cách Tin Lành. Ngài là một kẻ thù bất khả tiêu diệt của Tin Lành. Tuy nhiên, trong lời lẽ của ngài người ta vẫn thấy tiềm ẩn sự đại kết: "Phải rất thận trọng khi đưa ra các chân lý chính truyền để nếu người lạc giáo có mặt ở đó, họ sẽ cảm nhận được lòng bác ái và sự ôn hòa Kitô Giáo. Không được dùng lời lẽ cứng rắn và cũng không được khinh miệt những sai lầm của họ." Một trong những khuôn mặt vĩ đại của phong trào đại kết hiện nay là Đức Hồng Y Bea, một linh mục dòng Tên.

Lời Trích
Thánh Y Nhã đề nghị lời nguyện sau đây cho các hối nhân: "Lạy Chúa, xin hãy chấp nhận mọi đặc quyền, mọi ký ức, mọi hiểu biết và toàn thể ý chí của con. Ngài đã ban cho con tất cả những gì con có, tất cả con người của con, và con xin phó thác chúng cho thánh ý của Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ơn sủng. Được như thế, con đã giàu sang đủ và không dám đòi hỏi gì nữa."

Posted By Đỗ Lộc Sơn04:16

Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

Đức Mẹ thánh du tại Việt Nam 1965

Filled under:


Posted By Đỗ Lộc Sơn15:08

Phải hiểu người khác

Filled under:

 Một linh mục chánh xứ muốn củng cố Ban Chấp Hành họ đạo của mình. Ngài đã chọn những người gương mẫu trong họ đạo và luôn thăm nom gặp gỡ họ để khuyến khích, để nâng cao đời sống tinh thần, đời sống đạo đức và sự phục vụ vị tha của họ.
          Dầu vậy, một hôm, một người trong Ban Chấp Hành của ngài sa ngã vào một gương xấu, và đa số bổn đạo đã biết đến. Nhưng đó lại là người từng hoạt động tích cực nhất.
          Không muốn dứt khoát với một người nhiệt tâm, chỉ muốn đem người ấy trở về con đường thánh thiện và phục vụ. Vì thế, cha sở gặp Ban Chấp Hành và muốn chọn một người trong ban cùng ngài đến thăm và khuyến khích an ủi người kia.
          Ngài hỏi một vị trong Ban Chấp Hành:
          Ông nghĩ sao về gương xấu của người đó?
          Ông này đáp:
          Thưa cha, một người trong Ban Chấp Hành mà như thế không thể nào chấp nhận được.
          Cha sở hỏi người thứ hai và người này trả lời:
          Con đề nghị cha nên sa thải ông ấy, nếu không cả Ban Chấp Hành đều sẽ mang tiếng lây.
          Cha sở hỏi ý kiến tiếp, và đại đa số đều trả lời tương tự. Sau cùng đến lượt một người tự nảy giờ có vẻ im lặng suy nghĩ, ông cho ý kiến:
          Thưa cha, trường hợp anh đó chưa đến nỗi tệ. Con nghĩ, nếu con mà lâm vào hoàn cảnh của anh ấy, chắc chắn con sẽ đáng trách hơn anh ấy nhiều.
          Và cha sở đã chọn anh này để cùng ngài đến thăm người bạn lầm lỡ kia.
          Kính thưa quí vị và các bạn thân mến!
          Sống trên đời này “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, và “bảy mươi chưa què chớ khoe mình lành”, cho nên chúng ta đừng bao giờ khinh chê ai, đừng bao giờ kết án ai, nhạo cười ai, “cười người chớ khá cười lâu. Cười người hôm trước hôm sau người cười”.
          Mọi sự an vui trên đời này đề ở trong sự hòa nhã, đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để hiểu nhau hơn. Và thường chính sự hòa nhã thông cảm đó mới cải hóa được người khác. Còn sự kiêu căng kết án chẳng những không giải quyết được gì, mà con làm cho sự việc tồi tệ hơn thêm.
          Mỗi người chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp để đừng bao giờ cười chê hoặc kết án ai.
          Lạy Cha chúng con ở trên trời, là Chúa sự bình an. Xin giúp con biết xây dựng an bình chung quanh con. Xin ban cho con luôn biết nhịn nhục và tha thứ.
          Xin cho con luôn làm chủ được sự bình tĩnh và miệng lưỡi con. Đừng để con vội kết án anh chị em con khi con biết rằng con chưa hiểu gì về họ, về hoàn cảnh họ. và cũng xin giúp con đừng bực bội buồn phiền khi anh chị em con nghĩ khác về con, những lúc đó xin giúp con hiểu rằng họ có quyền tự do có ý kiến.
          Xin ban cho con nhân đức khiêm nhường, cam thông, để con biết yêu thương nâng đỡ anh chị em con khi họ sa chân vấp ngã, chớ đừng tàn nhẫn nhận chìm, đè bẹp anh chị em con, và nhất là cho con hiểu được rằng không ơn Chúa giúp con cũng chẳng làm được việc gì.
          Xin Chúa nhậm lời chúng con cầu xin.
          Con xin hết lòng ta ơn Chúa.
Sự tha thứ đích thực
Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo
trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong
trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự
tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa nhựt nọ, sau khi kêu gọi mọi người
hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố
Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt
quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ bà và
hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng
than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi
dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn
bắt tay bà vừa nói : “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp
của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà
Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu
nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với
con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không
thể nào bắt tay người đến xin bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách ”Nơi
ẩn trốn”, bà đã cho biết ”Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã
cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện : Lạy Chúa, Chúa thấy con
chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy
ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ
như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người
chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và
sự tha thứ của Thiên Chúa.

Một mẩu chuyện trong cuộc đời của Thomas Edison, người đã phát minh ra bóng đèn điện:
Sau khi đã tốn nhiều sức lực tinh thần, lẫn cực nhọc thể xác để cùng với những người cộng tác sáng chế ra bóng đèn điện đầu tiên, Thomas Edison trao bóng đèn điện cho một người bạn trẻ tuổi nhất trong nhóm, để leo lên các bậc thang gắn bóng đèn vào chuồi để thử nghiệm. Vì quá xúc động, nên vừa leo đến bậc thang cuối cùng thì người bạn trẻ này vuột tay làm rớt bóng đèn xuống đất vỡ tan.  Thế là toàn nhóm làm việc của Edison lại phải cố gắng không ngừng trong vòng 24 tiếng đồng hồ để tiếp tục chế tạo bóng đèn thứ 2 cho kịp chương trình thử nghiệm. Sau khi đã hoàn tất bóng đèn thứ hai này, Thomas Edison, trước sự ngạc nhiên của mọi người, lại trao bóng đèn đó cho người bạn trẻ đã làm vỡ bóng đèn thứ nhất, để anh ta leo lên gắn bóng đèn vào chuôi như lần trước.
   Cử chỉ cao đẹp này đã làm thay hẳn cuộc đời của người bạn trẻ đó..."
   Một hiệp sĩ dũng cảm tên là Hildebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Brunô nhục mạ nặng nề. Hildebrand thề sẽ trả thù đích đáng món nợ này. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng chương trình hành động. Cuối cùng, ông chọn địa điểm và ngày giờ thuận lợi. Ông thức dậy nửa đêm, một mình võ Trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết là Brunô sẽ đi ngang qua. Trên đường đi, ông gặp thấy 1 nhà nguyện nhỏ mở cửa.  Ông vào đó để chờ ngày sáng và trong khi chờ đợi, ông tiêu khiển bằng cách nhìn các bức tranh dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu nơi cung thánh.  Ở đây có 3 bức tranh: bức thứ nhất vẽ Đấng Cứu Thế mặc áo choàng đỏ, đầu đội mũ gai, phía dưới có ghi bằng tiếng La-tinh câu này: “Bị lăng nhục, Người không đáp trả lại lăng nhục.”  Bức thứ 2 nhắc lại cảnh đau buồn khi bị đánh đòn, với hàng chữ: “Khi chịu những khổ đau như thế, Người không hề đe doạ.”  Và cuối cùng, bức tranh thứ 3 trình bày Đức Giêsu trên cây thập giá, phía dưới ghi: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.”  Nhìn liên tiếp 3 bức tranh như thế, tâm hồn Hildebrand bị xúc động mạnh.  Ông quỳ gối xuống và bắt đầu cầu nguyện.  Dần dần cơn thù hận giảm đi, rồi biến mất.  Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến để tha thứ tận tình và để làm hoà với nhau!"
Lúc còn nhỏ. Don Bosco là một em bé linh hoạt, thích vui chơi. Một hôm khi mẹ Ngài là Magrita đi chợ, Bosco muốn lấy chiếc mũ trên tủ, nhưng tủ cao quá lấy không được. Cậu liền kê ghế sát tủ, leo lên rồi vươn người cố với lấy cái mũ. Chẳng may cậu đụng phải chiếc đèn dầu, nó rớt xuống vỡ tan tành, dầu chảy lênh láng.
Ngay lập tức Bosco nảy ra ý nghĩ muốn phi  tang để khỏi bị phạt. Nhưng không thể được vì dầu đã loang ra sàn nhà. Lúc ấy cậu giằng co trong tâm hồn: nên nói sự thật hay đổ lỗi cho con mèo? Được ơn soi sáng cậu quyết định phải thành thật thú lỗi và xin tha thứ. Rồi cậu cầm con dao ra vườn chặt một cành cậy, tuốt sạch lá làm một  cây roi và để sẵn chờ mẹ về.
Khi bà Magrita đi chợ về, Bosco chạy ra đón mẹ và hỏi:
- Mẹ ơi, mẹ đi đường có bình an không? Có mệt không?
- Bình an con ạ. Còn  con, con ở nhà có ngoan không?
Cậu đưa cành cây cho mẹ và nói:
- Mẹ nhìn đây thị mẹ biết thôi.
Mẹ cậu ngạc nhiên hỏi:
- Cái gì vậy?
- Thưa mẹ cái roi. Vì lúc nãy con làm bể cái đèn trên tủ. Có sẵn roi đây rồi, xin mẹ cứ phạt con rồi tha cho con.
Nói xong cậu cúi đầu im lặng.
Bà mẹ nhìn lên tủ thấy mất cái đèn. Bà biết lỗi của con, nhưng bà tha thứ ngay. Vì con bà đã biết thành thật nhận lỗi. Bà ôn tồn bảo con:
- Bosco, con làm bể đèn, đáng bị phạt. Nhưng con biết lỗi, mẹ tha cho con rồi. Từ nay phải ý tứ hơn nhé cưng.
Nói rồi bà ôm cậu, xoa đầu âu yếm.
Sưu tầm

Posted By Đỗ Lộc Sơn06:26

Thánh Inhaxiô được Ơn Hoán Cải.

Filled under:

 Năm 1521, Inhaxiô được ơn hoán cải. Đây cũng là năm Luther đoạn tuyệt với Giáo hội. Luther một linh mục dòng Augustinô muốn cải tổ Giáo hội nên yêu cầu Giáo hội sửa đổi một số điểm mà ông cho là không đúng giáo lý của Chúa. Nhưng vì lúc đó tinh thần đối thoại chưa có, và nhất là quyền lợi của các ông hoàng ở Đức, nên cuối cùng sự chia ly không ai muốn đã xảy ra nơi những người tin Chúa. Còn Inhaxiô muốn cải tổ Giáo hội, nhưng ngài muốn ở lại trong lòng Mẹ Giáo Hội để cải tổ. Ngài vẫn tin rằng, các Đức Giáo Hoàng là đại diện Chúa Kitô nơi trần gian. Chính vì thế ngài và các bạn đã muốn vâng phục Đức Giáo Hoàng cách đặc biệt, để được sai đi bất cứ nơi nào có nhu cầu trên thế giới.

Tôi có đi hành hương Đền Thánh Loyola tại Burgos -Tây Ban Nha, viếng thăm những nơi liên hệ đến cuộc hoán cải của Thánh Inhaxiô. Hướng dẫn chương trình tham quan đã được thu âm bằng nhiều ngôn ngữ. Chọn phần tiếng Việt, chúng tôi lắng nghe về hành trình hoán cải và nên thánh của Inhaxiô, đi đến những căn phòng giới thiệu về cuộc đời của thánh nhân và đến Nhà nguyện “hoán cải” dâng thánh lễ.

 

  1. Thánh Inhaxiô được ơn hoán cải

Thánh Inhaxiô sinh tại Loyola vào năm 1491, trong một gia đình quí tộc xứ Basque của Tây Ban Nha. Inhaxiô là người em út trong số 13 người con. Thời niên thiếu, Ignatiô được nhà vua chọn làm người hầu cận, tiếp đến là chiến sĩ trong quân đội hoàng gia.

Năm 1509, Inhatiô tòng quân Antonio Manrique de Lara, Duke thành Najera và Viceroy thành Navarre với mục đích là được thăng tiến thành một công tước. Dưới sự lãnh đạo của Duke, Inhaxiô đã tham gia nhiều trận đánh mà không bị thương tích gì.
Ý Chúa thật nhiệm mầu. Sức mạnh lại bày tỏ qua sự yếu đuối như lời thánh Phaolô:“…vì quyền năng của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối ” (2 Cr 12,9). Ngày 20 tháng 5 năm 1521, cột mốc ghi dấu đặc biệt. Quân Pháp đánh chiếm thành Pamplona. Inhaxiô bị một viên đạn đại bác bắn gảy chân và bị thương nặng. Bức tượng bằng đồng phía ngoài hành lang kể lại sự kiện này.Trở về sống dưỡng bệnh trong lâu đài của gia đình, Inhaxiô giết thời giờ bằng cách đọc những sách kể lại những hành động phi thường và lãng mạng của các hiệp sĩ. Các Nữ tu đã đem đến cho ngài cuốn “Cuộc đời Chúa Kitô” và cuốn “Hạnh các thánh”. Dần dần, những quyển sách này đã thu hút ngài. Khi đọc về cuộc đời của thánh Phanxicô Assisi, Thánh Đaminh và nhiều tu sĩ nổi tiếng khác, Inhaxio quyết tâm noi gương các bậc thánh nhân hiến mình để đi chinh phục Đất Thánh cho Giáo hội. Sau khi phục hồi, Inhaxio đến thăm tu viện Santa Maria de Montserrat của dòng Biển Đức. Tại đây, ngài treo bộ quân phục của mình trước một bức hình Đức Mẹ Maria. Sau đó, ngài đến thị trấn Manresa, Catalonia và đã dành nhiều tháng sống trong một hang động để thực hành khổ hạnh khắt khe. Tại Manresa, Inhaxio bắt đầu thay đổi lối sống và cảm nghiệm sự thay đổi trong tâm hồn xen lẫn niềm vui và nỗi khổ đau.Lương tâm bị đánh động, từ đó ngài khởi đầu một hành trình lâu dài và đau khổ khi trở về với Ðức Kitô. Có một lời cầu nguyện cho các hối nhân mà Inhaxiô rất tâm đắc: "Lạy Chúa, xin hãy chấp nhận mọi đặc quyền, mọi ký ức, mọi hiểu biết và toàn thể ý chí của con. Ngài đã ban cho con tất cả những gì con có, tất cả con người của con, và con xin phó thác chúng cho thánh ý của Ngài, để Ngài tùy ý sử dụng. Con chỉ xin Chúa ban cho con tình yêu và ơn sủng. Ðược như thế, con đã giàu sang đủ và không dám đòi hỏi gì nữa".

Vào năm 1522, được thấy Mẹ Thiên Chúa trong một thị kiến, ngài thực hiện cuộc hành hương đến đan viện dòng Biển Ðức ở Monserrat. Ở đây, ngài xưng thú tội lỗi, mặc áo nhặm và đặt thanh gươm trên bàn thờ Ðức Maria, thề hứa sẽ trở nên một hiệp sĩ cho Ðức Mẹ.

Trong khoảng thời gian một năm, ngài sống gần Manresa, có khi thì ở với các tu sĩ Ða Minh, có khi thì ở nhà tế bần, nhưng lâu nhất là sống trong một cái hang ở trên đồi để cầu nguyện. Chính trong thời gian hoán cải này, Linh Thao là con đường thiêng liêng đặc biệt và ngài bắt đầu một công trình mà sau đó rất nổi tiếng, đó là cuốn “Những Thao Luyện Tâm Linh”.

Vào năm 1523, ngài rời Manresa đến Roma và Giêrusalem, là nơi ngài sống nhờ việc khất thực và hăng say hoán cải người Hồi Giáo ở đây. Vì lo sợ cho tính mạng của ngài, các tu sĩ Phanxicô khuyên ngài trở về Barcelona. Tin tưởng rằng, kiến thức uyên bác sẽ giúp đỡ tha nhân cách thiết thực hơn, ngài dành 11 năm tiếp đó trong việc học ở Alcalá, Salamanca và Paris. 

Sau khi đi hành hương ở Đất Thánh về, Inhaxiô quyết định trở thành một linh mục. Việc này đòi hỏi ngài phải bắt đầu lại việc học hành. Inhaxiô đã cố gắng học tiếng La tinh và ghi tên vào học ở Đại học Paris.Trong lúc theo học ở Paris, ngài đã thu phục được một nhóm nhỏ sinh viên thành lập một hội đoàn trong đó có Phanxicô Xaviê và Pierre Fabre.

  1. Sáng lập Dòng Tên

Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15-8-1534, bảy sinh viên Đại Học Paris cùng nhau đến nhà nguyện Các Thánh Tử Đạo ở Montmatre (Crypte du Martyrium de Montmartre) để tuyên khấn. Chân phước Phêrô Favre, linh mục duy nhất của nhóm, dâng lễ, một lễ dành riêng cho họ. Trước khi rước Mình Thánh Chúa, mỗi người lần lượt đọc lời khấn đã viết sẵn. Trong tinh thần này, bảy anh em đã ý thức được một tâm tình: Tất cả là những người Bạn của Chúa Kitô. Trong số bảy người đó, ngoài Thánh Inhaxiô ra còn có Thánh Phanxicô Xaviê. Khi viếng thăm nhà nguyện Các Thánh Tử Đạo ở Montmatre, chúng tôi đọc được một bảng bằng đồng viết bằng tiếng La tinh: “Societas Jesu Quae Sanctum Ignatium Loyolam Patrem agnoscit, Lutetiam matrem Hic nata est. – Dòng Tên sinh tại nơi đây. Cha: Thánh Inhaxiô, Mẹ: Paris”.

 
Sau thời gian sống ở Paris, Inhaxiô và nhóm bạn bảy người đã nuôi mộng sẽ đi Giêrusalem và dấn thân ở đó. Tuy nhiên, họ cũng có một ý tưởng thứ hai, là nếu điều kiện không cho phép họ đi Giêrusalem, thì tất cả sẽ xin tự nguyện tùng phục Đức Thánh Cha, và sẽ đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì để phục vụ Giáo Hội.

Khi từng người lần lượt đã đến Roma, họ nhận được sự chúc lành của Đức Thánh Cha, Ngài cũng cho phép họ đi Đất Thánh và Ngài còn cho phép tất cả được chịu chức Linh Mục.

Trong năm đó, năm 1537, vì điều kiện không cho phép, nên việc đi Giêrusalem phải hoãn lại, và với thời gian, Chúa đã muốn hướng đi khác cho những người trẻ này. Đặc biệt trong thời gian này Inhaxiô đã có được một thị kiến tại La Storta: “Một hôm khi còn cách xa Roma mấy dặm, đang khi cầu nguyện trong một nhà thờ, Inhaxiô nhận thấy một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn, và thấy rõ ràng Chúa Cha đặt ông cùng Chúa Kitô, con của Ngài. Inhaxiô không thể nào nghi ngờ điều đó chỉ biết rằng Chúa Cha đặt mình cùng Chúa Con” (Hồi ký I-nhã số 96). Đó chính là một trong những kinh nghiệm giúp Inhaxiô và các anh em nhận ra được ơn gọi để trở nên những người kết thân với Chúa Kitô, trở nên những môn đệ của Ngài và cùng Ngài lên đường phục vụ Thiên Chúa và các linh hồn.

Trong thời gian này, các anh em tiếp tục sống tinh thần tông đồ, giúp các các linh hồn, và đưa mọi người về với Đức Kitô đúng theo tinh thần của Linh Thao. Đây cũng là một trong những trọng tâm sống của họ. Các anh em đều tiếp tục xây dựng cuộc sống của mình trên đặc sủng Linh Thao. Họ cũng nhận định và suy nghĩ về tương lai của mình. Một trong những điều họ suy nghĩ là: “Nên đặt tên cho nhóm bạn mình là gì đây?”. Với tâm tình “là những người bạn trong Chúa Kitô”, tất cả đều đồng tâm chọn chính tên của Đấng đã làm cho mọi người yêu mến và ao ước phục vụ. Vì thế, họ đã chọn tên cho nhóm là: “Societatis Jesus – Cộng đoàn Giêsu hữu”.

Sau đó, vào Mùa Chay năm 1539 tại Roma, Inhaxiô và các bạn đã nhất trí xin lập một dòng tu mới. Đức Thánh Cha Phaolô III đã chính thức phê chuẩn Dòng Chúa Giêsu vào năm 1540, với tên gọi “Cộng đoàn Giêsu hữu”. Thánh Inhaxiô được bầu làm bề trên đầu tiên. Ở đây xin mở ngoặc để phần nào trả lời cho câu hỏi: “Tại sao ở Việt Nam lại kêu Dòng Chúa Giêsu là Dòng Tên?“ Vì khi Dòng Chúa Giêsu vào Việt Nam, thì trong bối cảnh xã hội thời đó, ai kêu tên của Ông Bà Cha Mẹ, đặc biệt tên của Chúa, thì rất phạm thượng, nên “Dòng Chúa Giêsu” đã được kêu là “Dòng Tên”, để không phạm húy, để mọi người dễ chấp nhận, và cũng dễ dàng cho anh em Giêsu Hữu thời đó trong việc truyền giáo.

Khi Dòng Tên được phê chuẩn và hình thành, Inhaxiô và các anh em đã quyết định một vài điều liên quan đến đời sống thiêng liêng và phục vụ. Cộng đoàn Dòng Tên sẽ không có giờ kinh phụng vụ chung, tu sĩ dòng không có áo dòng như các tu viện và dòng Tu thời đó, và Dòng Tên cũng không là một tu viện với một “chỗ gối đầu” êm ấm, được bao quanh bởi bốn bức tường kiên cố. Nhưng tại sao lại có những quyết định như thế? Đơn giản là các tu sĩ Dòng Tên cần phải sống ơn gọi tông đồ mà Thiên Chúa đã mời gọi. Vì thế, họ đã chọn lựa một số cách thức giúp họ dễ dàng thi hành sứ mạng tông đồ hơn. Vì thế, tu viện của Dòng Tên sẽ là phố phường và thế giới, nơi các tu sĩ Dòng Tên đặt chân tới để giúp các linh hồn và phục vụ anh chị em. Đó chính là tinh thần sống của Inhaxiô, một người lữ hành, và của những anh em Dòng Tên từ xưa cũng như hôm nay.

Từ đó trở đi, theo gương của Chúa Giêsu, các tu sĩ Dòng Tên đã đi đến từng phố phường, làng mạc…, để đem Tin Mừng của Chúa đến khắp mọi nơi, cùng chia sẻ và giúp đỡ từng tâm hồn nhận ra được tình yêu của Chúa, tin vào Tin Mừng của Ngài, và tập sống theo mẫu gương của Đức Kitô. Đặc biệt, ở đâu cần giúp đỡ hơn, ở đâu khó khăn hơn, ở đâu Tin Mừng Chúa cần “nở hoa” hơn thì các anh em Dòng Tên quyết tâm lên đường dấn thân nơi đó. Vì vậy mà Phanxicô Xaviê đã phải xa lánh nhóm bạn, đáp tàu đến một vùng đất xa xôi và lạ lẫm ở Ấn Độ và Nhật Bản, Mattheo Ricci và Adam Schall ở Trung Quốc, Alexandre de Rhode (cha Đắc Lộ) ở Việt Nam, và còn bao tu sĩ Dòng Tên khác đã đặt chân lên Nam Mỹ, Châu Phi.

Ngoài ra, môi trường phục vụ của dòng Tên ngày xưa, cũng như hiện nay với trên 20 ngàn tu sĩ tại 127 quốc gia, không giới hạn ở một chân trời nào cả. Không chỉ có chân trong triều đình nhà Vua thời xưa, mà còn ở những góc phố dơ bẩn tại Manila thời nay. Không chỉ ở tại những đại học danh tiếng như Georgetown University – Hoa Kỳ, mà còn tại những vùng hoang vu đất đỏ ở Việt Nam. Thực vậy, nơi nào Vinh Danh Thiên Chúa hơn, thì các tu sĩ Dòng Tên có mặt ở đó. (Lm Nguyễn Ngọc Thế, SJ).

  1. Inhaxiô một vị thánh lớn của Giáo hội

Trong khi các bạn đồng hành được Đức Giáo Hoàng sai đi truyền giáo thì Inhaxiô vẫn ở Roma, chăm sóc tổ chức mới của ngài nhưng vẫn dành thời giờ để thành lập các nhà cho cô nhi cho người tân tòng. Ngài thành lập Trường Roma (sau này là Ðại Học Grêgôriô), với mục đích là trường này sẽ trở nên khuôn mẫu cho các trường của Tu Hội.

Trong thị kiến ở La Storta, Inhaxiô xin và đã được “Chúa Cha xin Đức Giêsu vác thập giá nhận Inhaxiô làm người phục vụ”, và Đức Giêsu vác thập giá đã nói với Inhaxiô: “Ta muốn con phục vụ chúng ta”.

Thánh Inhaxiô qua đời ngày 31-7-1556, hưởng thọ 90 tuổi. Đức Giáo hoàng Phaolô V phong chân phước cho ngài vào ngày 27-7-1609. Đức Giáo hoàng Grêgôriô XV phong thánh ngày 13-3-1622. Lễ kính Thánh Inhaxiô vào ngày 31-7 hằng năm.

Thánh Inhaxiô đích thực là một nhà thần bí. Ngài tập trung vào đời sống tâm linh dựa trên các nền tảng thiết yếu của Kitô Giáo như Thiên Chúa Ba Ngôi, Ðức Kitô, Bí Tích Thánh Thể. Linh đạo của ngài được tỏ lộ trong châm ngôn của Dòng Tên “ad majorem Dei gloriam” nghĩa là  "để Thiên Chúa được vinh danh hơn". Trong quan niệm của ngài, sự tuân phục là một đức tính nổi bật nhằm đảm bảo cho thành quả và sự năng động của tu hội. Mọi hoạt động phải được hướng dẫn bởi lòng yêu mến Giáo Hội thực sự và tuân phục Ðức Thánh Cha vô điều kiện. Vì lý do đó, mọi thành viên của dòng phải khấn lời thề thứ tư, đó là phải đến bất cứ đâu mà Đức Giáo Hoàng đã sai đi để cứu rỗi các linh hồn.

Các linh mục Dòng Tên gồm những nhà bác học, thần học, giáo dục, khoa học cho đến những nhà truyền giáo danh tiếng và nhiều đấng tử đạo. Những thần học gia vĩ đại, con cái của Thánh Inhaxiô như: Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955) và Henri de Lubac (1896-1991) của Pháp, Karl Rahner (1904-84) của Đức, Bernard Lonergan (1904-84) của Canađa và John Courtney Murray (1904-67) của Hoa Kỳ, Hans Urs von Balthasar (1905-88), người Thụy Sĩ…Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng là Tu sĩ Dòng Tên.

Đến ngày 1 tháng 1 năm 2012, tổng số tu sĩ Dòng Tên là 17.637 tu sĩ, trong đó có 12.526 linh mục, 1.470 tu huynh, 2.896 học viên và 745 tập sinh, phục vụ tại 133 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới trong 84 tỉnh dòng, 5 miền độc lập và 10 miền phụ thuộc. Các tu sĩ của Dòng có mặt trong hầu hết các hoạt động của Giáo Hội (suy tư thần học, giảng thuyết, mục vụ giới trẻ, giúp Linh thao, truyền giáo…) cũng như của xã hội (giáo dục, truyền thông, phục vụ người tị nạn và di dân,…) nhằm phục vụ và thăng tiến con người. Họ là các thần học gia, các vị linh hướng, giáo sư, kỹ sư, nhạc sĩ, nhân viên xã hội, tâm lý gia, bác sĩ, luật sư, nhà báo, nhà truyền giáo…(x.dongten.net).

Khi dâng lễ ở Nhà nguyện “hoán cải”, tôi suy gẫm về ơn trở lại của thánh nhân. Nhờ đọc sách thiêng liêng mà Inhaxiô được biến đổi.Thiên Chúa đã dùng sách thiêng liêng như một khí cụ để hoán cải Inhaxiô. Việc đọc sách thiêng liêng đã tạo nên nhiều vị thánh. Nhờ việc đọc sách thiêng liêng, con người trau dồi tri thức về giáo lý Kitô Giáo, đồng thời tìm được những kiến thức cho cuộc thưa chuyện mỗi ngày với Thiên Chúa. Một cuốn sách thiêng liêng hay có thể được coi như một người bạn tốt.

Thời đại kỹ thuật số hôm nay, các phương tiện truyền thông hằng ngày luôn tấn công con người bằng những âm thanh và hình ảnh thế tục, nó muốn tách lìa từng người ra khỏi Thiên Chúa. Một quyển sách tốt có thể trở thành một người bạn tuyệt vời, một nhà tư vấn khôn ngoan. Một quyển sách tốt là một kho tàng tâm linh. Một vài phút suy niệm về một bài đọc thiêng liêng sẽ giúp chúng ta gần Chúa hơn.

Inhaxiô là một vị đại thánh cho Giáo Hội và một nhân cách lớn cho xã hội. Ngài là một thiên tài trong lịch sử loài người. Nơi ngài, ân sủng và tự nhiên hòa hợp cách mỹ mãn để biến đổi một hiệp sĩ đầy tham vọng thế tục thành một vị thánh lớn để bước theo Chúa Kitô xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa và phục vụ mọi người.Thật khó mà mô tả đầy đủ những đức tính phong phú và có phần đối nghịch của Inhaxiô : hăng hái nhưng biết kềm chế; dũng cảm, quyết tâm, nhưng đơn sơ, cẩn trọng; mạnh mẽ, cương nghị nhưng dịu dàng, yêu thương. Một con người của những khát vọng lớn lao. Cả những tham vọng, đam mê thế tục. Trước khi hoán cải, phục vụ vua chúa trần gian, tìm kiếm danh vọng cho bản thân. Sau khi hoán cải, cũng với khát vọng và hoài bão lớn lao cố hữu, nhưng được thanh luyện, để không còn tìm kiếm chính mình mà tìm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Posted By Đỗ Lộc Sơn05:54