Thứ Bảy, 18 tháng 3, 2017

Trên cây thập giá

Filled under:

Bị treo trên cây thập giá, Giêsu không chỉ chịu đựng nỗi đau về thân xác, nhưng còn phải đón nhận lấy hết tất cả những lời nói khinh miệt, thách thức của con người. Ngài lại còn phải chịu cảm giác cô đơn đến tột cùng khi không nghiệm thấy được sự hiện diện của Cha ở bên mình. Trên cao ấy, Giêsu thấm thía hơn thế nào là vâng phục, thế  nào là nỗi cay đắng của thế gian, thế nào là sự bạc bẽo của nhân loại. Giêsu ý thức được rằng chính bởi giây phút này mà Ngài mới giáng sinh xuống thế. Ngài đến là để thay con người hiến dâng một của lễ có một không hai. Ngài đến là để dâng chính Ngài.

Giờ đây, những giây phút cuối cùng của cuộc sống nhưng đang dần trôi qua cách chậm rãi. Ánh tà dương như đang báo hiệu cho đoạn kết của một cuộc hành trình. Giêsu đến thế gian là để ở với con người và để cứu vớt con người, nhưng ngay từ khi mới sinh, Ngài đã bị xua đuổi. Khi còn là một bé thơ nhỏ xíu nằm trong vòng tay mẹ, Giêsu đã phải chạy trốn người ta. Rồi những phút giây ấm êm và nhàn hạ bên gia đình nhỏ bé ở Nazaret, những bữa cơm đạm bạc nhưng chan chứa niềm vui, những tiếng cười đùa nhảy múa bên chúng bạn. Đến khi nghe tiếng vị Tiền Hô cất tiếng trong sa mạc, Ngài thấy trong lòng ngổn ngang bao thổn thức. Một tiếng gọi mời bừng dậy nơi tâm can, thôi thúc Ngài lên đường thi hành sứ vụ. Những bước chân dong duổi khắp thôn miền khu xóm, chia sẻ cho bao người biết về chân lý Tin Mừng, về niềm vui cứu độ. Có khi bên sườn đồi, có khi bên gốc cây, có khi bên hồ nước.

Ở bất cứ nơi đâu và trong hoàn cảnh nào, Giêsu cũng có thể đưa ra những lời giáo huấn thâm sâu. Nhìn đồng lúa mênh mông, Người nghĩ đến bao tâm hồn đang cần được xoa dịu. Nhìn con chim sẻ đang tìm thức ăn, Người lớn tiếng ca ngợi Chúa Cha vì đã luôn quan phòng cho mọi loài dưới thế. Nhìn hạt thóc vương vãi, Người buồn phiền khi nghĩ đến những ai chưa mở lòng đón nhận Lời hằng sống. Nhìn cỏ dại mọc lên, Người thương xót cho những cành lúa đang yếu ớt chống chọi giữa đồng. Biết bao chân lý nhiệm mầu Người đã luôn sẻ chia cho những môn đệ yêu dấu. Đi đến đâu, Người tuôn đổ hồng ân từ trời đến đấy. Ngài nâng dậy những kẻ liệt lâu năm. Ngài mở mắt cho những ai không thấy, mở đôi tai cho kẻ không nghe, Ngài chữa lành những ai bị phong hủi. Ngài nuôi sống những ai đang đói lã giữa đường. Bất cứ ai tìm đến với Ngài đều gặp được niềm vui và một sự giải thoát.

Rồi mới đây thôi, Ngài còn bịn rịn chia tay với những môn đệ dấu yêu. Ngài trao ban cho các ông những bài học tâm huyết, căn dặn các ông những điều cần thiết, hứa hẹn với các ông về một cuộc tái ngộ mới sẽ chẳng bao giờ tan. Dù trong lòng bao nỗi buồn phiền như cồn cào đau buốt, Ngài vẫn trao ban cho các ông những lời an ủi thật chân tình và thiết tha. Một đêm qua đi, cũng bấy nhiêu thời gian đó, nhưng sao trôi dài đằng đẳng thê lương. Bao tiếng chửi rủa, bao lời vu oan, tiếng đòi roi giáng xuống. Quảng đường dài đi từ chân núi lên đây, những mệt mỏi, những khổ đau. Tiếng búa chan chát gõ vào đinh sắt như vẫn còn vang vọng đâu đó. Tiếng cười hả hê như còn ở bên tai. Cái ngạo nghễ của con người ngày xưa khi đưa tay hái trái cấm dường như đang lặp lại. Họ tưởng là bằng những âm mưu tàn độc, họ có thể củng cố cho uy quyền của mình, họ có thể cho mình một vị thế ngang hàng với Tạo Hóa. Ít ra, trong phút giây ngắn ngủi còn lại trên thập giá này, Ngài còn gặp lại người Mẹ thân yêu đã một đời hy sinh cho Ngài, và nhờ Mẹ tiếp tục chăm sóc cho các môn đệ của mình. Và cũng trong khoảnh khắc hiếm hoi này, Ngài đã đưa tay đón lấy tấm lòng ăn năn thống hối của một người cũng đang bị treo phía bên kia.

Những gì Cha muốn Ngài làm, Ngài đã chu toàn hết tất cả với trọn vẹn tấm lòng của một người con. Kể cả những xua đuổi của con người, kể cả những bội phản của nhân loại. Nào là đớn đau, nào là mệt mỏi, nào là thập giá nặng vai, nào là chửi rủa inh ỏi, nào là cô đơn, nào là nước mắt… Giêsu đã ôm trọn vào lòng hết tất cả. Ngài đã sống trọn vẹn và đã hứng chịu mọi sự như một con người, một con người ở vị trí rốt cùng hết. Đến đây, mọi sự đã hoàn tất nên Ngài dâng mọi sự vào tay Cha, Ngài phó thác hồn Ngài trong tay Cha. Đôi mắt dần mờ đi, đôi tai không còn nghe rõ nữa, những đau đớn dường như cũng phôi phai dần, không còn mấy cảm giác. Chẳng còn sức đâu mà cố giữ thân người. Đầu đội mão gai của Người không thể nào gượng thêm được nữa. Dòng hơi cuối cùng trong người vội thoát ra. Gục đầu xuống, sứ mạng tại thế của Người chấm dấu hết sang trang.

Trên cây thập giá là hình ảnh một Thiên Chúa “không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (x. Pl 2,6-11). Trên cây thập giá là hình ảnh của một con người “đến để phục vụ, chứ không phải được phục vụ” (Mc 10,45), mà phục vụ không chỉ là cho đi vào đồng tiền bố thí hay nói vài lời an ủi cho qua. Phục vụ là hiến cả mạng mình, là cho đi tất cả, bất chấp người ta có đối xử tệ bạc với mình như thế nào. Trên cây thập giá là hình ảnh đích thực của một tình yêu nhưng không, một tình yêu không vun vén cho mình, một tình yêu vô vị lợi, yêu Cha hết linh hồn, hết thân xác, hết sức lực và yêu tha thân “đến cùng” (x. Mc 12,28-31; Ga 13,1).

Đớn đau không còn nữa, tủi nhục không còn nữa. Có đánh đòn hay mắng nhiếc Ngài đi nữa thì cũng chẳng có ích chi. Chơ vơ trên ngọn đồi cao, trong tiếng hú rợn rùng, một thân hình tả tơi treo lơ lửng. Lặng im nhưng lại nói lên nhiều điều thẳm sâu, chất vấn những ai đang nhìn đến. Ngay trong giây phút ấy, thế lực sự dữ bị đánh bại, cửa thiên đàng bị đóng kín bao nhiêu năm qua nay mở toang, ơn cứu độ lai láng của Thiên Chúa ào ạt tuôn xuống cho mọi loài thụ tạo. Muôn loài hò hét mừng chiến thắng của vị cứu tinh. Cả núi đồi chuyển rung như tiếng trống khải hoàn hùng tráng. Giêsu đã vác thập giá của mình đi đến nơi Cha muốn. Đây sẽ là giờ Cha làm công việc của mình. Sự vâng phục và tình yêu đã giúp Giêsu đập tan thế lực tăm tối vốn đang thống trị thế giới này.

Đau đớn sẽ qua đi, mọi cái đều sẽ qua đi. Hãy cứ tin vào lời Cha mà tiến bước. Cuối đường hầm tối tăm là khoảng trời ngợp nắng với hoa. Mở mắt ra, người công chính sẽ thấy được Thiên Đàng.


Đức Giêsu – vị Thiên Chúa ẩn mình

 Đức Giêsu thực sự là một mẫu mực cho lối sống và cung cách hành xử của chúng ta. Nhìn vào Ngài và chiêm ngắm đời sống của Ngài, chúng ta có thể tìm thấy được những bài học quý giá, những khuôn vàng thước ngọc, những chỉ dẫn khôn ngoan giúp tìm thấy hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu Đức Giêsu chỉ như thế thôi thì Ngài cũng chẳng hơn gì các bậc thánh hiền, các triết gia hay những bậc vĩ nhân trong lịch sử. Những nhân vật này cũng có một đời sống rất tốt lành, nêu gương sáng cho người đương thời và được các bậc hậu thế muôn đời kính ngưỡng. Những giáo lý họ truyền dạy cũng có một giá trị vô cùng thâm thúy, chất chứa một nền minh triết khôn ngoan, trường tồn với nhân gian qua bao đời. Phải chăng Đức Giêsu cũng chỉ là một trong số các nhân vật vĩ đại này? Ngài có điều gì đó khác họ, hay thậm chí là hơn họ không?
Trên bình diện lý trí, ta chỉ có thể nhìn về Giêsu như một con người, với những lề lối sinh hoạt, những tư tưởng và đời sống đạo đức. Nhưng Đức Giêsu vừa giống cũng vừa khác với chúng ta. Giống ở chỗ, tất cả đều là con người đúng nghĩa. Còn khác ở chỗ, Đức Giêsu mang trong mình bản tính Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật, một Thiên Chúa mặc lấy xác phàm. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta thấy được điều này. Dưới cái nhìn đức tin, Đức Giêsu trở thành một nhân vật có một không hai trong lịch sử, độc nhất vô nhị và trỗi vượt lên trên tất cả. Với chúng ta, Thiên Chúa cũng hiện diện trong tâm hồn theo một cách thức thiêng liêng. Còn với Đức Giêsu, Thiên Chúa không “hiện diện” theo một cách thức như vậy mà chính Ngài là Thiên Chúa. Giữa ta và Thiên Chúa có một sự phân biệt vì ta không phải là Thiên Chúa. Còn giữa Ngài và Thiên Chúa không có sự phân biệt nào cả. Bản tính Thiên Chúa thấm đẫm vào từng thớ thịt và dòng máu của Ngài. Chính điều đó làm cho Ngài trở nên phi thường và cái chết của Ngài có khả năng cứu độ mọi loài mà không một ai khác dưới gầm trời này có thể làm được.
Các bậc thầy khác có thể sống một đời sống tốt lành nhờ ngộ ra con đường chân lý. Họ trở nên thanh thoát và chỉ vẽ cho người khác cách thức tìm đến bình an. Nhưng tự cổ chí kim cho đến nay, không một ai trong số họ tuyên bố cách mạnh mẽ và cương quyết rằng họ là con của Vị Thiên Chúa Tối Cao. Chẳng ai khẳng định với người khác rằng họ là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chẳng ai khuyên người khác hãy ăn thịt và uống máu mình để có sự sống đời đời. Chẳng ai dám hứa với người khác là sẽ cho họ được vào Nước Trời với mình. Chẳng ai dám gọi Đấng Tuyệt Đối là Cha. Chẳng ai có thể tự mình thực thi vô số dấu lạ, rồi có khả năng truyền cho các môn đệ của mình những quyền năng như thế. Cũng không ai dám nói với người khác là mình có toàn quyền trên trời dưới đất, mọi tà thần khác cũng phải quy phục. Và đặc biệt hơn cả, chẳng ai trong số các bậc hiền triết sống lại từ cõi chết.
Người ta có điêu ngoa hay dùng thủ thuật lừa dối người khác để làm cho mình trở nên phi thường. Nhưng việc sống lại từ cõi chết thì điều xưa nay chưa người nào làm nỗi. Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết, không phải là một kiểu sống lại như Lazarô (x. Ga 11,1-44) hay như con trai bà góa thành Nain (x. Lc 7,11-17), nhưng Ngài đã đi vào trong sự sống thần linh của Thiên Chúa, một sự sống vượt trên cái chết nên sẽ không bao giờ chết nữa. Câu chuyện phục sinh của Ngài đã làm cho bao người kinh hoàng và điều đó chứng minh cho người ta thấy thân phận Thiên Chúa của Ngài, vốn đã “ẩn mình” trong suốt những năm qua. Thật khó có thể nghĩ rằng chính các tông đồ đã “bịa” ra câu chuyện Phục Sinh. Các ông lúc đấy đang sợ hãi, phải trốn chui trốn nhũi. Các ông cũng không phải là những người mưu mẹo và tinh khôn để có thể nghĩ ra câu chuyện phục sinh với những tình tiết hết sức logic, thu hút và thuyết phục người ta. Cũng chẳng ai “bịa” ra câu chuyện hoang đường rồi hân hoan vui mừng chịu chết vì nó. Tất cả các ông đều sẵn sàng lấy giá máu để làm chứng cho điều này, chứ không phải chỉ một hay hai người. Giới cầm quyền thời ấy hẳn là cũng muốn đối đầu với các ông, chứng minh câu chuyện phục sinh mà các ông loan truyền trong dân chúng là sai, nhưng họ không hiểu tại sao không tìm thấy xác Đức Giêsu. Và trước bao dấu lạ cùng sự biến đổi khác thường của các ông, họ không thể làm gì hơn.
Hẳn là sẽ có rất nhiều người cho rằng chuyện Đức Giêsu phục sinh là một chuyện ngớ ngẩn. Cũng chẳng thể trách họ được vì có ai trong chúng ta tự mình trải nghiệm hay chứng kiến kinh nghiệm có một không hai này đâu. Nhưng gom hết tất cả những gì ta biết về cuộc đời của Đức Giêsu, cộng với những gì Ngài truyền dạy và tiên báo, rồi cả những phép lạ Ngài làm, ta được mời gọi để tin vào một vị Thiên Chúa từ trời cao đã hạ giới xuống thế, sống một kiếp con người, và ở giữa chúng ta. Ta cảm phục vị Thiên Chúa ấy vì sự khiêm nhường của Ngài khi nhìn đến khoảng thời gian Ngài âm thầm sống trong một gia đình nhỏ bé, bình thường và giản dị như một con người, không có gì khác thường, không có gì nổi trội. Ta càng thấy cảm phục Ngài hơn khi chiêm ngắm lại cuộc thương khó đầy thương đau của Ngài. Vào khoảnh khắc bị bao kẻ thù tấn công tứ phía, vào lúc dường như bị tất cả mọi sự xấu bủa vây, Ngài – vị Thiên Chúa Tối Cao – vẫn lặng im cho người ta hành hạ, để mặc người ta muốn làm gì mình thì làm, không một lời chửi bới, không một phản ứng chống cự. Chính nơi cây thập tự ấy, ta thấy Thiên Chúa như ẩn đi tất cả những vinh quang và quyền năng vô biên của mình, để cùng im lặng với con người, cùng chịu đau nỗi đau của nhân thế.
Thiên Chúa luôn thích sự ẩn mình. Ngài vẫn còn ẩn mình rất nhiều trong thế giới này, đặc biệt nơi những biến cố đau thương, nơi những tình huống mà “chúng ta không tài nào hiểu nỗi”. Thiên Chúa ở đâu, trong những trận động đất, sóng thần cướp đi mạng sống của bao người vô tội? Thiên Chúa ở đâu ở, trong những cuộc chiến đấu tranh giành quyền lực, đất đai, tài nguyên? Thiên Chúa ở đâu, trong những trận dịch bệnh khủng khiếp? Thiên Chúa ở đâu, trong những vụ mưu sát, những cuộc khủng bố, những vụ đánh bom mang danh chính nghĩa và công lý? Thiên Chúa ở đâu, khi người lành thì chết thảm, còn kẻ ác cứ ung dung tự tại, ngông nghênh làm điều dữ? … Lý trí chẳng thể nào trả lời cho chúng ta biết được. Còn đức tin thì nói với chúng ta rằng Thiên Chúa ở ngay đó, ngay nơi tâm điểm của những điều tai ác đó, đang bị người ta lôi đi, bị người ta hành hạ, bị người ta chặt đầu, bị người ta giết chết. Thiên Chúa chẳng “trốn” ở đâu cả, và cũng chẳng phải Ngài cố tình không thấy gì cả, càng không phải vì Ngài chẳng thể làm được gì nên mới lặng im. Ngài không thể lấy đi tự do của kẻ ác, vì kẻ ác cũng là con cái Ngài, nhưng điều quan trọng hơn cả, là Ngài muốn ở kề bên những ai đang gặp cảnh bần cùng, khốn khổ và chịu nhiều thiệt thòi. Ngài ở đấy, chịu đau với họ và chịu chết cùng với họ.
Khi thập giá qua đi, chỉ sau một khoảnh khắc nhỏ, Thiên Chúa sẽ phô bày vinh quang bất diệt của mình cho những ai có lòng tin. Ai dính chặt cuộc đời mình với Đức Giêsu, cùng đi với Ngài và để cho Ngài đi cùng mình lên đồi Canvê, người ấy cũng sẽ cùng Ngài sống sự phục sinh của Thiên Chúa. Ngài sẽ kéo người ấy lên với mình, Ngài sẽ nâng người ấy dậy và đưa về cõi vinh phúc thiên thu. Thiên Chúa ẩn mình, không phải vì Thiên Chúa bất lực, nhưng vì Ngài quá nhân từ và quá quyền năng. Người nào có thể im lặng được khi chịu thiệt thòi, người ấy phải rất mạnh mẽ và đầy lòng từ bi. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa như thế. Bởi vậy, khi chiêm ngắm Đức Giêsu, ta tìm thấy con đường khôn ngoan và những tư tưởng thanh tẩy tâm hồn, nhưng ta cũng được mời gọi để chiêm ngắm hình ảnh một Thiên Chúa ẩn mình nơi chính con người Ngài. Đi vào sâu trong Giêsu, ta sẽ bắt gặp được điểm hội tụ của trời và đất, của thiên đàng và thế gian, của Thiên Chúa và con người. Tất cả đều có nơi ấy, một cái tên thôi: Giêsu.


Làm sao biết chắc là Đức Giêsu đã sống lại?

 Niềm tin Kitô giáo xuất phát từ một con người tên là Giêsu. Kinh Thánh thuật lại rằng Ngài đã bị quân Rôma hành hình bằng cách đóng đinh vào thập giá. Ngài đã chết. Cái chết của Ngài đã mang đến nỗi đau buồn cũng như thất vọng cho nhiều người vì họ không thể tin rằng một con người vừa tốt lành, vừa quyền năng như Ngài lại phải chết theo một cách thức nhục nhã như thế. Tuy nhiên, chính Kinh Thánh cũng cho biết là Ngài đã phục sinh từ cõi chết. Sự phục sinh của Ngài đã làm dấy lên không biết bao nhiêu điều lạ lẫm, mà cho đến nay, đã hơn hai ngàn năm trôi qua, người ta vẫn còn đặt câu hỏi về nó.
Phục sinh là gì? Chẳng ai trong chúng ta có kinh nghiệm phục sinh giống như Đức Giêsu cả. Có thể có nhiều người chết lâm sàng, rồi sống lại. Cũng có những người đã chết thật rồi sống lại (như Ladaro hay con trai bà goá thành Nain mà Tin Mừng nói đến). Nhưng việc sống lại này không phải là phục sinh, vì chính những người này sẽ phải chết thật một lần nữa, thân xác họ sẽ bị chôn vùi và mục rửa, khi tuổi đời chấm dứt. Còn với Đức Giêsu, Ngài đã đi vào một sự sống mới, không bao giờ phải chết nữa, thân xác Ngài cũng không bị huỷ hoại. Ngài vẫn là Ngài nhưng Ngài không còn giống như Ngài trước kia. Chính sự phục sinh này của Ngài đã là niềm hy vọng lớn lao của con người, và niềm hy vọng này đã giúp khai sinh Ki-tô giáo.
Tạm thời không bàn đến chuyện đức tin, nhiều người đã đặt vấn đề là liệu Đức Giêsu có phục sinh theo kiểu mà chúng ta vừa nói thật không. Một bằng chứng rõ ràng và thuyết phục nhất (dù chưa đầy đủ) chứng minh cho chuyện Ngài đã sống lại là việc người ta không thể tìm thấy được xác của Ngài. Tất cả mọi vĩ nhân trên thế giới này đều đã chết và thân xác của họ vẫn còn được xác định. Còn Đức Giêsu thì không. Các môn đệ sẽ không thể bịa chuyện rằng Đức Giêsu đã phục sinh và hiện ra với mình vì chỉ cần lính Rôma trưng dẫn cái xác là mọi chuyện sẽ được giải quyết.
Nhưng biết đâu các môn đệ đã đánh cắp cái xác thì sao? Điều này càng khó có thể xảy ra hơn nữa. Khi Đức Giêsu bị bắt và hành hình, ai trong các ông cũng sợ đến nỗi bỏ chạy. Phêrô còn không dám thừa nhận rằng mình có quan hệ với ông Giêsu. Ngay cả sau đó, các ông vẫn còn nhốt mình trong phòng vì sợ thì làm sao dám cả gan đi đánh cắp xác Thầy tại một ngôi mộ có lính La Mã được trang bị vũ khí canh giữ. Ngoài ra, chúng ta cũng không tìm thấy lý do gì để các ông phải liều mạng làm chuyện này. Các ông không thể tự dưng đi đánh cắp cái xác, giấu một nơi không ai biết, rồi bịa chuyện Thầy Giêsu sống lại, sau đó chịu chết vì câu chuyện tưởng tượng ấy: người thì bị chặt đầu, người thì bị đóng đi, người thì bị tùng xẻo… Hơn nữa, nếu đây là một âm mưu tập thể thì chỉ cần một người trong số họ khai ra sự thật thì kế hoạch sẽ vỡ tan tành. Các ông lại là những ngư phủ thất học, làm sao có thể nghĩ đến và bịa ra một câu chuyện về sự phục sinh mà đến nay chúng ta còn không biết nó là cái gì. Vả lại, nếu các ông bịa chuyện thì không nên đưa phụ nữ vào vì thời đó chẳng ai tin lời một phụ nữ. Ngoài ra, các ông cũng không thể bịa chuyện Đức Giêsu hiện ra với mình vì Đức Giêsu không chỉ hiện ra với các ông mà còn với nhiều người khác, trong đó có một người rất thù ghét Kitô giáo là Phaolo. Chính Phaolo đã dành trọn cuộc đời còn lại của mình để làm chứng về sự phục sinh của Đức Giêsu. Thậm chí, ông đã chết vì sự thật ấy. Những bằng chứng này cho thấy, các môn đệ không thể đánh cắp xác chết của Đức Giêsu rồi bịa chuyện được.
Có thể có trường hợp Đức Giêsu đã không chết, ngài chỉ ngất đi, hoặc chết lâm sàng thôi, rồi sau khi được đưa xuống thập giá vào đem vào mộ, Ngài đã tỉnh lại và bỏ trốn? Nghĩ như vậy có được không? Giả thuyết này cũng không vững, vì có nhiều bằng chứng cho thấy Đức Giêsu đã chết thật. Theo luật, lính La Mã phải kiểm tra rất kỹ rằng tử tù phải chết rồi thì mới cho tháo xuống khỏi thập giá, còn không thì phải đập dập ống chân tử tù để hắn ta không thể bỏ trốn. Việc Đức Giêsu không bị đập dập ống chân (Ga 19,31-33) cho thấy lính La Mã xác nhận rằng Ngài đã chết. Lính La Mã sẽ phải lãnh cái chết nếu không kiểm tra cẩn thận. Như thế, hẳn là anh lính này phải rất cẩn trọng. Gioan cũng thấy máu và nước chảy ra từ cạnh sườn (Ga 19,34-35), điều này cho thấy phổi của Ngài đã bị ép và không thể hoạt động được nữa. Giả như đến đây Ngài vẫn chưa chết thì Ngài cũng không thể thở được khi bị những tấm vải liệm quấn lấy từ đầu đến chân và bị đặt trong một khe đá kín (Ga 19,38-42). Hơn nữa, một thân xác tàn tạ sau khi bị đánh đập và đóng đinh như thế thì sao có thể đẩy nỗi tảng đá lớn lấp mộ mà không bị lính La Mã đứng canh phát hiện. Giả như Ngài có làm được thì Ngài đã đi đâu, làm gì? Tại sao không ai thấy? Và quan trọng hơn nữa, một con người sống dở chết dở, thân bại danh liệt như thế, vốn dĩ đã làm cho các môn đệ thất vọng tràn trề, làm sao có thể khiến bao nhiêu người sẵn sàng bịa chuyện rồi chết vì mình với một sự can đảm và khảng khái như vậy. Bởi vậy, giả thuyết cho rằng Đức Giêsu không chết hoặc chỉ chết lâm sàng không đáng tin.
Một chứng cứ rất hùng hồn để chứng minh cho sự phục sinh của Đức Giêsu chính là những lần Ngài hiện ra, cùng ăn uống, trò chuyện, chia sẻ, giảng dạy và ban thêm sức mạnh cho các ông. Chỉ có thể là Đấng Phục Sinh mới khiến cho các ông mở toang cánh cửa sợ sệt để hiên ngang ra ngoài trước đám đông mà giảng dạy. Chỉ có thể là sức mạnh của Đấng Phục Sinh mới có thể giúp các ông được biến đổi từ trong ra ngoài: các ông có thể nói được nhiều ngôn ngữ, có thể làm các phép lạ, có thể mạnh dạn đối chất với các nhà cầm quyền, có thể có những lời nói làm say mê lòng người, cuốn hút họ và trao ban cho họ niềm tin. Trải qua hơn hai ngàn năm, đức tin này ngày càng được chứng thực bởi nhiều vị thánh, những người được ơn đụng chạm và cảm nghiệm nó trong một tương quan sâu sắc với Chúa. Và nhờ đó, nó vẫn trường tồn và thêm vững mạnh. Tất cả những điều tuyệt vời này không thể đến từ một câu chuyện huyền hoặc do một số người thất học bịa ra hay từ một cái xác không còn hình thù nằm trong nấm mồ hay một người giả vờ chết rồi sau đó trốn chui trốn nhũi. Nó chỉ có thể đến từ một Đấng đã phục sinh thật sự, đã đi vào trong sự sống vĩnh cữu của Thiên Chúa.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ