Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2017

5 Phút cho Lời Chúa 26/3/2017

Filled under:


MỞ ĐÔI MẮT ĐỨC TIN
Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù.” (Ga 9,39)
Suy niệm: Với tình yêu kiên nhẫn,  cô Anne Sullival đã giúp cho bé Helen Keller vừa bị mù vừa câm điếc vượt lên số phận cách kiên cường. Không chỉ biết đọc biết viết, Helen Keller đã tốt nghiệp đại học và trở thành giáo sư sử dụng được năm thứ tiếng. Chúa Giê-su không những cho anh mù bẩm sinh nhìn thấy bằng đôi mắt giác quan, Ngài còn mở cho anh đôi mắt đức tin nữa. Chúng ta cùng học kinh nghiệm sống đức tin của anh: - anh có cảm nghiệm sâu đậm về một lần gặp Chúa Giê-su và được Ngài chữa lành (8-11); - dù chỉ đơn thương độc mã, anh vẫn mạnh mẽ bảo vệ niềm tin vào Chúa Giê-su (13-17) và làm chứng về Ngài bằng một lập luận vững chắc (30-33); - lẽ sống của anh bây giờ chính là TIN Chúa Giê-su, cho dù có bị bách hại, kể cả bị cha mẹ bỏ rơi (18-34); - và đôi mắt đức tin của anh được mở hoàn toàn khi anh tuyên nhận Đức Giê-su và sấp mình thờ lạy Ngài (37).
Mời Bạn: Xin Chúa mở cho chúng ta đôi mắt đức tin để chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Cha nhân từ, Ngài đang hiện diện, bao bọc và làm trong chúng ta những việc kỳ diệu. Để nhờ đó chúng ta luôn biết sống tin tưởng và phó thác nơi Người, nhất là những lúc ta gặp nhiều khó khăn nguy hiểm.
Chia sẻ một cảm nghiệm gặp gỡ Chúa trong đời sống của mình.
Sống Lời Chúa: Tập nhìn thấy Chúa trong công việc và trong mọi người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa xin mở lòng con để con hiểu ý Chúa, xin mở mắt con để con nhìn thấy Chúa, xin mở tai con để con nghe lời Chúa và xin mở miệng con để con nói Lời Chúa cho mọi người.



THÁNH BRAULIÔ
THÀNH SARAGOSSE GIÁM MỤC
(+644)
Ngược dòng lịch sử Giáo hội, chúng ta thấy mỗi thời đại, mỗi giai đoạn của lịnh sử Thiên Chúa lại cho xuất hiện một vị thánh thích hợp với thời đại, với giai đoạn lịch sử ấy. Các ngài đã được Thiên Chúa tuyển trạch như những vị lương y đem đến cho thời đại các ngài những vị thuốc thần hiệu. Brauliô (Braulion) là một trong những vị thánh đã được Thiên Chúa giao phó sứ mệnh cao cả đó.
Thánh Brauliô chào đời tại thành Saragossa. Ngài là em thánh Gioan Giám mục thành Saragossa. Ngay từ nhỏ, trí khôn Brauliô đã rất sắc sảo, học đâu nhớ đấy. Cậu rất giỏi khoa học, tinh thông cổ ngữ, nói thạo nhiều sinh ngữ thời ấy. Lòng đạo đức cũng không kém phần sâu sắc. Baliô đem hết tâm trí lo phụng sự Chúa, bằng cách thực hiện đức ái đến nơi đến chốn và chuyên tâm luyện tập các nhân đức. Brauliô rất ham đọc Kinh Thánh. Sở dĩ Baliô có được vốn kiến thức lớn lao và lòng đạo đức khả quan, một phần lớn là nhờ ở công lao dậy dỗ tận tụy của thánh Isiđôrô Tổng Giám mục thành Sêvila.
Đức Tổng Giám mục Isiđôrôâ, một nhà bác học của nước Tây Ban Nha. Thánh Isiđôrôâ xây cất tại kinh thành Sêvilla một trường trung học tối tân, tổ chức chu đáo nhằm giáo huấn con cái nhà quý tộc từ khắp nước gửi đến. Chính thánh nhân điều khiển việc giáo dục. Brauliô là một trong những môn đệ được thánh nhân quý mến nhất. Ngài rất mến phục tài ba lỗi lạc của Brauliộ Đôi lần gặp những ngày bận bịu nhiều công việc, thánh Isiđôrôâ thường đưa bài vở của ngài cho Brauliô xem lại và sửa chữa giúp. Sự kiện đó tỏ lòng khiêm tốn tột bậc của thánh Isiđôrôâ và đồng thời cũng cho chúng ta thấy Brauliô là người học rộng, biết nhiều hơn các đồng bạn.
Nhận thấy tài đức đặc biệt của Brauliô, Đức Giám mục giáo phận Saragossa đặt ngài làm Giám mục phó. Ngài mới được cất cử làm Giám mục phó ít lâu, thì Đức Giám mục Gioan qua đời. Các Đức Giám mục nhóm họp đại hội đồng tại thành Saragossa để bầu Giám mục mới. Cả Đức Giám mục Brauliô cũng được mời tới tham dự. Trong lúc các Giám mục còn phân vân chưa biết phải tuyển lựa ai lên chức vị Giám mục. Bỗng nhiên một khối lửa hình cầu sáng chói từ trời bay xuống đậu trên đầu thánh Brauliộ Đồng thời có tiếng phán: "Đây là tôi tớ Ta đã tuyển trạch. Nơi ngài có Chúa Thánh Thần ngự trị". Các Giám mục vui mừng trước hiện tượng kỳ lạ đó, các ngài cám ơn Thiên Chúa đã tỏ ra thánh ý Người một phép lạ lớn lao hiếm có.
Vừa nhận chức Giám mục Saragossa, thánh Brauliô cấp tốc tới tham dự Công đồng thứ tư, thứ năm và thứ sáu tổ chức tại thành Tôlêđô. Công đồng bế mạc, Đức Giám mục Brauliô trở về giáo phận. Ngài đem hết tài lực để thánh hoá đoàn chiên Chúa mới trao phó. Công việc đầu tiên của ngài là lo tẩy trừ mọi mầm mống lạc giáo Ariô đã ăn rễ sâu nơi quần chúng. Công việc nặng nhọc đó đòi hỏi nơi ngài một cố gắng phi thường. Phải có bộ óc thông minh, một đời sống thánh thiện như thánh nhân mới có thể đảm đương nổi những việc khó khăn như thế. Thánh nhân có tài giảng thuyết. Ai nghe thánh nhân giảng một lần cứ muốn nghe mãi. Những người khô khan cứng cỏi nhất, khi nghe thánh nhân giảng thuyết cũng phải động lòng hối cải. Vì thực ra, không phải thánh nhân giảng, nhưng là Chúa Thánh Thần dùng miệng ngài mà giảng. Người ta kể lại rằng: "Lần kia khi thánh nhân đang giảng thuyết thì có một chim bồ câu ở đâu tới đậu trên vai ngài như để thông báo cho Giám mục biết những điều phải nói. Nhờ sự săn sóc tận tụy của người chủ vườn cần mẫn, không mấy chốc những gai góc, những cỏ lồng vực do lạc giáo Ariô reo rắc khắp vườn Giáo hội Saragossa, đã được nhổ sạch".
Mối bận tâm thứ hai của thánh nhân, là lo xây cất cho Chúa những ngôi nhà xứng đáng. Ngài lo giữ nhà thờ chính toà của ngài luôn luôn sạch sẽ, mua sắm những đồ thờ loại hảo hạng. Hết các nhà thờ khác trong giáo phận cũng đều được ngài săn sóc, để ý và truyền giữ sạch sẽ, trang hoàng cho có mỹ thuật. Ngoài ra thánh nhân còn xây cất nhiều thánh đường mới, chẳng hạn nhà thờ thánh Engrassiô. Ngài lo trùng tu các thánh đường bị chiến tranh tàn phá.
Đền thờ vật chất ngài con chăm lo như thế, phương chi là những đền thờ thiêng liêng.
Thánh Brauliô cư xử rất hòa nhã, hiền hậu với mọi tầng lớp xã hội, không phân biệt giầu sang với nghèo hèn. Với những con người kiêu căng, coi thường giới răn Thiên Chúa và Giáo hội, ngài lại đối xử rất nghiêm ngặt và cương quyết. Dẫu thế mọi người vẫn quý mến thánh nhân và coi ngài như cha. Thánh nhân lôi cuốn được nhiều người tội lỗi trở về với Chúa, đưa nhiều chiên lạc trở về đoàn chiên. Thánh nhân lôi kéo được nhiều linh hồn trở về với Chúa không phải chỉ nguyên bằng lời giảng thuyết khéo léo, hấp dẫn, nhưng còn bằng chính đời sống thánh thiện và thanh bần của ngài. Thánh nhân không thích ăn mặc lụa là sang trọng, ngài ưa mặc những quần áo vải thô, thứ vải của dân nghèo quen dùng. Cách ăn mặc đã vậy, đồ ăn thức uống của ngài còn đơn giản hơn nhiều. Ngài thường để dành tiền cho người nghèo, và thỉnh thoảng lại tổ chức những cuộc phát chẩn để giúp đỡ những gia đình túng thiếu.
Sau 20 năm tận tụy với chức tông đồ, giữa mùa xuân năm 644, sau khi đã chịu các bí tích sau hết, thánh nhân êm ái trút hơi thở cuối cùng, để lại bao cảm phục, thương nhớ cho đoàn chiên. Nghe tin thánh nhân tạ thế, Đức Tổng giám mục thành Sêvilla và một số đông các Giám mục ở những thành lân cận đã tới kính viếng xác thánh nhân. Tới chỗ đặt thi hài, các ngài nghe thấy tiếng các thiên thần ca hát du dương, đồng thời các ngài còn nghe có tiếng phán: "Hỡi bạn chí thiết, hãy chỗi dậy về với Cha". Và tiếng thánh nhân đáp lại: "Lạy Chúa, con xin về với Chúa ngay bây giờ". Thi hài thánh nhân được chính tay các Giám mục và hàng giáo sĩ khiêng để dưới hầm bàn thờ thánh Giacôbê.
Thời loạn lạc, người ta di chuyển xác thánh nhân đến một nơi bí mật. Qua năm 1279, chân phước Valêriô đích thân hiện về báo cho Đức Giám mục thành Saragốssa quý danh là Phêrô biết chỗ chôn xác thánh Brauliô. Qua 600 năm trời, thi thể thánh nhân vẫn tươi tốt nguyên vẹn như khi còn sống. Xác toả hương thơm ngào ngạt. Toàn dân rước xác thánh về an táng tại nhà thờ chính toà giáo phận. Trong cuộc rước thi hài này đã xẩy ra nhiều phép lạ, nhiều người tật bệnh được lành đã.
Hằng năm giáo phận Saragốssa mừng kỷ niệm đáng ghi nhớ đó vào ngày 17 tháng 7. 


Mua Nghĩa

Ðời chiến quốc, Phùng Huyên làm thực khách cho Mạnh Thường Quuân là tướng quốc nước Tề.
Một hôm Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên qua đất Tiết để thu các mối nợ. Trước khi ra đi, Phùng Huyên hỏi: "Thu xong nợ rồi có cần mua thêm vật gì không?". Mạnh Thường Quân bảo: "Xem trong nhà còn thiếu vật gì thì cứ mua về".
Phùng Huyên đến đất Tiết cho người mời tất cả những con nợ của chủ đến đông đủ, rồi truyền rằng: Mạnh Thường Quân ra lệnh xóa bỏ tất cả số nợ. Và để cho mọi người tin tưởng, Phùng Huyên đem đốt hết những văn khế. Những người thiếu nợ và toàn dân đất Tiết rất vui mừng, tung hô vạn tuế.
Khi họ Phùng trở về, Mạnh tướng quân lấy làm lạ cho là đòi nợ gì mau chóng thế, mới hỏi: Thu nợ xong chưa, và được trả lời là thu xong cả rồi. Ðến khi được hỏi về việc mua đồ vật mang về, Phùng Huyên thưa: Khi đi tướng quân dặn bảo mua những vật gì trong nhà còn thiếu. Tôi trộm nghĩ: trong cung, tướng công chất chứa những đồ trân bảo, ngoài chuồng nuôi đầy chó ngựa. Vậy vật tướng công còn thiếu là điều nghĩa, nên tôi trộm lệnh mua điều nghĩa đem về.
Mạnh Thường Quân ngạc nhiên hỏi: "Mua điều nghĩa thế nàỏ". Họ Phùng đáp: "Tôi trộm lệnh tha cho tất cả các con nợ, nhân đó thiêu hủy các văn khế, được dân vui mừng tung hô, ấy là vì tướng công mua được điều nghĩa vậy".
Một năm sau, vua Tề không dùng Mạnh làm tướng quốc nữa, nên ông phải lui về đất Tiết ở. Bấy giờ bá tánh đất Tiết, trai gái bé già tranh nhau ra đón rước giữa đường, hoan hô nhiệt liệt. Khi ấy Mạnh Thường Quân quay lại Phùng Huyên mà bảo: "Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, ngày nay tôi mới trông thấy".
"Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con về chốn an nghỉ đời đời".
Lời khuyên trên của Chúa Giêsu có giá trị hơn việc mua điều nghĩa do ông Phùng Huyên bày ra để dân chúng đất Tiết hoan hô đón rước Mạnh Thường Quân, khi ông bị thất thế. Bởi lẽ lời khuyên của Chúa Giêsu đề cập về thời gian tối hậu của cuộc sống đời sau, khi con người phải nhắm mắt xuôi tay. Như khi đã đến trần gian trần truồng, từ dạ mẹ mang tiếng khóc ban đầu mà ra thì lúc chết, con người phải từ giã cuộc sống ra đi với đôi bàn tay trắng.
Ở đoạn 25 của Phúc Âm Thánh Matthêô, Chúa Giêsu nêu rõ lúc đó những bạn hữu sẽ tiếp đón chúng ta vào cuộc sống trường sinh là những ai? Ðó là:
- Những người đói khát mà chúng ta đã cho ăn uống.
- Những kẻ rách rưới mà chúng ta đã cho quần áo che thân.
- Những người đau ốm mà chúng ta đã đến viếng thăm giúp đỡ.
- Những kẻ bị giam cầm mà chúng ta đã can đảm đến ủy lạo, ủi an.
- Những người sa cơ lỡ bước mà chúng ta đã cho tạm trú.