Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

5 Phút cho Lời Chúa 15/3/2017

Filled under:

PHỤC VỤ
“Ai muốn làm lớn giữa các con, thì phải là đầy tớ các con... Cũng vậy, Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người.” (Mt 20,26.28)
Suy niệm: Khởi đầu các văn kiện các Đức Giáo Hoàng thường xưng mình là “Tôi Tớ của các Tôi Tớ”. Điều đó hẳn muốn nói lên, trong cương vị Giáo Hoàng, ngài là tôi tớ phục vụ mọi tôi tớ là chúng ta. Đúng vậy, được cắt đặt ở địa vị nào trong giáo hội hay xã hội cũng nhằm để phục vụ cộng đoàn. Sự kiện hai môn đệ Chúa là Gio-an và Gia-cô-bê xin chỗ cao nhất trong triều đại của Chúa là dịp để Chúa nói về cuộc khổ nạn của Ngài và khẳng định nẻo đường mà các môn đệ Ngài phải theo để xứng danh là môn đệ Chúa. Chức vụ và địa vị là gánh nặng, là thập giá nhưng là niềm vui và hạnh phúc khi chu toàn vì nên giống Chúa Giê-su phục vụ người khác. Nếu không chu toàn trách vụ thì làm sao gọi là uống chén đắng, làm sao gọi là phục vụ, làm sao để người khác nhờ ta mà tốt hơn, được cứu chuộc?
Mời Bạn: Dù bạn là ai, làm nghề nghiệp gì, giữ chức vụ nào, là tu sĩ hay giáo dân, là cha là mẹ hay là con cái… tất cả đều được mời gọi sống xứng đáng trong bậc sống : chu toàn trách nhiệm, sống gương mẫu…
Sống Lời Chúa: Không đứng núi này trông núi nọ, nhưng làm tốt công việc trong chức phận mình là nên giống Đức Ki-tô, là trở nên người phục vụ. Tránh lối sống vụ lợi, hưởng thụ, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu nỗ lực trong công việc bổn phận của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết phục vụ là hy sinh, phục vụ là quên mình, phục vụ không cần đền đáp… phục vụ vì Chúa Ki-tô để nên giống Ngài.


 THÁNH CLÊMENTÊ
DÒNG CHÚA CỨU THẾ
(1751)
Thánh Clêmentê, một chiến sĩ đầy nhiệt huyết đã đem toàn đời phụng sự Giáo hội.
Clêmentê sinh ngày 26.12 năm 1751 tại Taúyt (Tawitz). Cậu ra đời đem lại cho ông bà thân sinh và mọi người thân thuộc một niềm hoan lạc. Nhưng niềm vui lại chóng qua, vì vừa lọt lòng mẹ được 6 tháng, Clementê đã phải mồ côi cha. Mất cha là cậu mất một tình thương cao cả, một gương đức tin sống động. Theo lời bà Maria Steez mẹ cậu kể lại sau này, thì lúc ấy chính bà vì không thể cầm lòng nhìn vẻ mặt ngây thơ và buồn thỉu của Clêmentê, bà đã chỉ cho cậu cây thánh giá và nói: "Con ơi! Hãy nhìn lên thánh giá, chính Đấng giang tay trên đó là người Cha độc nhất của con, con hãy luôn sống đẹp ý Người". Hiểu lời mẹ, Clêmentê đòi lấy thánh giá và hôn yêu một cách chí thiết. Còn gì an ủi bà mẹ goá hơn! Niềm an ủi đó tràn ngập tâm hồn bà Maria trong những chuỗi ngày goá bụa của bà. Bà tận tụy giáo dục con, dạy con thấu hiểu lẽ đạo và tinh thần bác ái. Theo lời mẹ dạy, sau những giờ làm việc tận tụy ở nhà trường, Clêmentê dành nhiều giờ lui tới nhà thờ viếng Chúa và vào bệnh viện thăm các bệnh nhân, vì thế người ta không lạ gì khi thấy Clêmentê sớm được Chúa gọi sống đời tận hiến.
Nhưng không may một thử thách đến với cậu. Năm Clêmentê bắt đầu được đi học cũng là năm gia đình lâm cảnh nghèo túng. Hoàn cảnh kinh tế buộc Clêmentê phải xoay nghề làm bánh lấy tiền ăn học. Thấu rõ hoàn cảnh của Clêmemtê, Chúa không muốn kéo dài những ngày thử thách. Người tìm dịp nâng đỡ cậu bằng cách soi sáng cho một cha dòng Chúa Cứu Thế nhận kiếm cho cậu một việc làm trong tu viện. Đầu tiên Clêmentê cũng làm việc như bao nhiêu người khác, nhưng dần dà cha dòng Lambertô nhận thấy Clêmentê có nhiều đức tính tốt và có thiện chí làm linh mục, bèn xin bề trên cho cậu vào học miễn phí trong nhà thử. Clêmentê sung sướng biên thư cho mẹ và bắt đầu học bốn năm la ngữ. Nhưng chưa được ba năm thì cha Lămbéc qua đời. Clêmentê lại phải qua những ngày cô đơn không người nâng đỡ. Cậu vâng theo ý Chúa trở lại nghề cũ, vừa làm vừa học. Nhưng rồi dịp may lại đến: cậu được một bạn đạo đức và giầu có giúp tiền để cùng đi hành hương sang Rôma. Khi trở về hai người bạn cùng đến thành Trivoly xin Đức Giám mục Banabê (sau lên ngôi Giáo Hoàng lấy danh hiệu là Piô VII) cho phép theo đuổi đời sống tu hành trong giáo phận. Sau một năm thử và một kỳ khảo, Clêmentê được Đức Giám mục ban áo "ẩn sĩ". Nhưng Chúa không muốn Clêmentê sống đời tu hành, Người muốn thầy chịu chức linh mục để hoạt động truyền giáo về sau. Nên Chúa quan phòng đã soi sáng cho ba nhà phú hộ thành Viên chung sức giúp tiền để thầy tiếp tục theo học thần học tại đại học đường.
Theo học vừa chẵn một năm, thầy nhận thấy các giảng sư chủ trương sai lạc với giáo thuyết của Giáo hội, và có khuynh hướng thiên về phái Lutêrô, nên thầy tuyên bố rút lui sau những ngày biện luận phản kháng kịch liệt. Phản ứng của thầy đã thức tỉnh nhiều người, trong đó có cả một giáo sư, ông Lahn sau làm linh mục và chết tại Viên. Bỏ đại học, Clêmentê cùng với người bạn là Tađê Hubl trở về Rôma thủ đô của thế giới công giáo. Hai người đến trọ gần nhà thờ Đức Bà Cả. Nơi đây thường ngày mỗi buổi sáng tinh sương, hai người đến dự lễ tại nhà thờ thánh Juliênô do các cha dòng Chúa Cứu Thế trông coi. Bầu khí đạo đức đầy hương thơm thánh thiện của các cha đã lôi kéo tâm hồn thầy Clêmentê. Thầy nhận rõ ý Chúa và nhất định chọn ơn kêu gọi. Không trì hoãn, thầy đến gõ cửa phòng cha bề trên, quỳ dưới chân cha xin nhập dòng. Được thúc đẩy bởi ơn thần linh, cha bề trên niềm nở đón nhận thầy. Bấy giờ Clêmentê được 33 tuổi. Thánh Anphongsô vị sáng lập dòng cũng tỏ ra rất hân hoan khi được tin thầy Clêmentê nhập dòng ngài. Nhân dịp ấy ngài có nói tiên tri về sứ mệnh của thầy Clêmentê: "Thiên Chúa sẽ làm rạng danh đầy tớ Người trong những xứ miền bắc ".
Sau năm nhà tập thánh thiện và đầy gương sáng, Clêmentê được mặc áo dòng, ngày 24-10 năm 1784; và năm sau ngày lễ thánh Giuse, thầy khấn và chịu chức linh mục, một ân huệ mà thầy hằng ao ước. Một năm sau, bề trên sai cha cùng với mấy thầy khác trẩy đi Vacsôvi và được vua Poniatowski tiếp đón nồng hậu. Tuy nhiên các ngài không khỏi phiền muộn khi thấy nước Ba Lan lâm vào cảnh rối loạn vì những ảnh hưởng không tốt của phái thệ phản mỗi ngày một phổ biến, nhất là từ khi họ được nữ Hoàng Catarina bảo trợ và ban nhiều đặc ân… Trước cảnh đau lòng ấy, cha Clêmentê đã phải thốt lên: "Chúng ta hãy cầu nguyện để sự dữ khỏi giáng xuống!" Lời tiên đoán ấy không bao lâu đã thể hiện. Năm 1793, Ba Lan xẩy ra nội chiến làm cớ cho quân Nga, quân Phổ và Thổ Nhĩ Kỳ tràn vào phân chia lãnh thổ. Tình trạng hỗn loạn kéo dài hơn một thế kỷ. Sức mạnh hùng hổ của quân địch, tình trạng kinh tế khủng hoảng và sự đồi bại của nền đạo lý đã làm thất đảm quân dân Ba Lan. Tuy nhiên nhà truyền giáo Clêmentê không nhụt chí. Cha vẫn hăng hái lao mình vào công việc không kể ngày đêm với khẩu hiệu vắn tắt: "Chúa muốn thế ".
Hoạt động truyền giáo của cha trước tiên nhằm nâng đỡ các người nghèo khổ. Sau cuộc tràn lấn như nước vỡ bờ của quân Nga, kinh đô Vacsôvi ngổn ngang những xác chết vô thừa nhận, trên các phố phường đầy những trẻ em côi cút không cha không mẹ, không nhà ở và bánh nuôi thân. Cha vận động dựng nhiều cơ sở tế bần, lập nhiều hội từ thiện hầu cứu giúp những trẻ em xấu số, những nạn nhân chiến tranh. Cha sống với họ như một người cha, một người mẹ hiền. Ngài hoàn toàn bỏ mình để có thể kiếm đủ lương thực nuôi dưỡng đoàn con mồ côi. Lần kia trên đường hành khất, cha gặp một bọn người quý phái, cha chìa tay xin họ làm phúc; không ngờ một người trong bọn họ nổi khùng khạc nhổ vào mặt cha. Không kể chi thái độ bất nhã và thiếu giáo dục ấy, đầy tớ Thiên Chúa lau khô mặt và nói: "Nước bọt ông nhổ là phần của tôi, nhưng xin các ông vui lòng cho đoàn con côi cút của tôi một thứ gì chứ ?" Cử chỉ bạt thiệp và lời nói dịu dàng của cha đã khuất phục con người cục cằn và khiến cả bọn mủi lòng. Họ vội vàng móc túi biếu cha nhiều tiền bạc.
Càng giầu lòng bác ái với kẻ nghèo khó, cha Clêmentê càng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Câu "Chúa muốn thế " luôn ở cửa miệng cha. Cha nhiệt thành với công việc truyền giáo, và hết sức hoạt động để không những giúp đỡ đoàn con cái mồ côi, mà còn hướng dẫn đám dân bơ vơ không chúa chiên sống lo âu vì đe doạ, ngoi ngóp trong bầu không khí tội lỗi. Cha lo liệu cho họ cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là phần rỗi của họ.
Nhưng giữa lúc công việc trôi chảy cũng là lúc Chúa gửi đến cho cha một thử thách. Vì ghen tương công việc truyền giáo của cha, nhiều kẻ thù lợi dụng tình thế vu cáo cha trước mặt chính quyền. Thêm vào đó, Hoàng đế Nãpháluân sẵn có thâm ý muốn âm mưu chiếm đất Ba Lan, nên đã thúc đẩy chính quyền địa phương trục xuất các linh mục truyền giáo ngoại quốc mà đứng đầu sổ là cha Clêmentê. Cha buộc lòng trở về Viên và tiếp tục hoạt động truyền giáo, phổ biến tinh thần bác ái nơi quê hương. Tại đây nhờ ơn Chúa quan phòng, cha đã thiết lập nhiều cơ sở dạy chầu nhưng, giảng giáo lý, đồng thời mở trường học, xây nhiều viện tế bần và nhà mồ côi.
Cha say mê làm việc không kể gì tuổi già sức yếu. Thấy cha dù đã kiệt sức, lại mang chứng sốt rét nặng mà vẫn không thôi làm việc, nhiều người rất cảm thương cha. Để an ủi họ cha chỉ nói: "Chúng con đừng buồn, chỉ kẻ có tội mới khốn nạn và đáng thương, chúng ta hãy thực hành điều Thiên Chúa muốn, như ý Người và vì Người ".  Cha cứ tiếp tục làm việc cho tới trưa ngày 15 tháng 3 năm 1820. chính lúc chuông kinh Truyền tin vang lên cũng là lúc linh hồn người về nơi vĩnh phúc. Cha êm ái phó linh hồn trong tay Chúa như một của lễ tận hiến hoàn toàn. Cha hưởng thọ 69 tuổi.
Tang lễ cha được cử hành trọng thể.
Tiếp đó là những phép lạ Chúa là vì lời bầu cử của cha.
Đức Lêô XIII phong chân phước cho cha Clêmentê vào ngày 20 tháng 5 1909, đức Piô X đã phong ngài lên bậc hiển thánh để mọi người năm châu cùng soi chung gương bác ái là phản ảnh tình yêu bao la của Chúa Kitô. 


Ðời Là Một Chuyến Ði

Một tác giả nọ đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau:
Tại một vùng quê nọ bên Tây phương, một ông từ nhà thờ có thói quen mà không ai có thể lay chuyển được. Mỗi ngày, cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến cho người tổng đài trong vùng và hỏi giờ�. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã đặt câu hỏi: "Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin cho ông biết lý do hỏi giờ như thế mỗi ngày?". Ông từ nhà thờ mới giải thích: "Ồ, có gì đâu. Tôi là người phải kéo gác chuông mỗi ngày vào giờ ngọ. Tôi cần biết giờ chính xác".
Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra. Ông nói với ông từ nhà thờ như sau: "Thật là buồn cười. Trong khi ông hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi lại điều chỉnh đồng hồ theo tiếng chuông của ông".
Tác giả của câu chuyện trên đây kết luận rằng: cuộc sống quả là một bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời. Chúng ta cần một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Và người có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, Chủ tế của sự sống.
Kinh thánh, Lời của Chúa, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình. Từ lúc Noe xuống tàu, qua Abraham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Ðức Maria và cả cuộc đời không ngừng di động của Ðức Kitô: tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình Ðức Tin của người Kitô chúng tạ
Ðời là một cuộc hành trình... Ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng. Tuổi thơ và thanh niên được dệt bằng những năng động để không ngừng dự phóng và tiến tới. Ở tuổi trung niên, thành công tràn ngập nhưng thất bại cũng giăng đầy lối đi: có những người bạn chợt đến rồi đi; vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm... Rồi tuổi già chợt đến, chúng ta mới nhận ra rằng tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ...
Ðời là một cuộc hành trình. Ðức Kitô đã trải qua cuộc đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình. Sinh ra trong một cuộc hành trình, vừa mở mắt chào đời đã phải vội vã ra đi như một người tị nạn. Năm 12 tuổi lạc mất trong một cuộc hành trình... Ra đời, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Palestina. Và cuối cùng, Giêrusalem, đồi Calvê là điểm đến của cuộc hành trình.
Qua cuộc hành trình không nghỉ ngơi ấy, Ðức Kitô đã tuyên bố với chúng ta: "Ta là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống".
Chỉ trong Ngài, qua dấu chân của Ngài, chúng ta mới thật sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình của chúng ta.... Ngài là Con Ðường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang. Nhưng Con Ðường của Ngài chính là Con Ðường của yêu thương và phục vụ... Hãy tin tưởng rằng khi chúng ta sống yêu thương, sống phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên Con Ðường của Ngàị