Thứ Sáu, 24 tháng 3, 2017

Bài giảng lễ Thiếu nhi: Chúa Nhật 4 Mùa Chay - Năm A

Filled under:

Thiếu nhi chúng con yêu quí.
Lại một lần nữa chúng con được nghe một câu chuyện đẹp. Cha có thể nói là rất đẹp. Câu chuyện hôm nay là câu chuyện của một người mù, lại mù từ khi mới sinh. Qua câu chuyện này, chúng ta được thấy thật rõ tình thương của Chúa. Tình thương ấy được bộc lộ ra như thế nào thì chúng con sẽ hiểu.

1. Sự kiện
Trước hết, chúng con thấy hôm nay Chúa tự tìm đến với người mù. Anh không xin Chúa. Cũng chẳng có ai thương tình dẫn anh tới Chúa. Chúa tự tìm đến với anh. Và Chúa muốn chữa cho anh nếu anh muốn.
Khi Chúa mới đến, anh chẳng biết Chúa là ai. Lúc Chúa lấy bùn xức vào mắt anh, anh cũng chẳng biết Chúa làm như thế để lảm gì. Rồi khi Chúa bảo anh đứng dậy đi tới suối Siloac mà rửa anh cũng chưa biết đi rửa như thế có ăn thua gì không. Vậy mà anh cứ đi và sau khi anh rửa, mắt anh được sáng ra. Anh nhìn thấy được. Anh hạnh phúc quá nhưng anh vẫn chưa biết rõ người đã mở mắt cho mình là ai. Anh chỉ biết lờ mờ "Người mà người ta gọi là Giêsu". "Người mà người ta gọi là Giêsu"(Ga 9,11). Đó là tất cả những gì anh biết về Chúa. Ngoài ra Người ở đâu, anh không biết. Ngài là người như thế nào anh cũng chẳng hay.
Giả như câu chuyện dừng lại ở đây như bao câu chuyện phép lạ khác Chúa đã làm cha tưởng cũng đã dẹp rồi. Nhưng những sự việc diễn ra sau đó lại làm cho câu chuyện đẹp hơn, đẹp hơn gấp bội phần.
Vậy thì sau đó thì sao? Cha thấy sau đó là một cuộc chiến. Cuộc chiến này có hai phe. Một phe gồm một thế lực hùng mạnh của tôn giáo và trần thế. Phe này bằng mọi cách muốn phủ nhận phép lạ Chúa làm. Phe thứ hai là một mình anh mù mới được Chúa cho sáng mắt. Phe này chỉ có một mình anh. Anh chỉ có một mình nhưng là người hùng trong trận chiến này. Anh quyết tâm bênh vực sự thật cho tới cùng, dù có phải hy sinh, dù phải đối diện với những thử thách vừa nguy hiểm vừa to lớn anh chưa hề gặp trong đời.
 Khi anh được người ta tra vấn về nguyên do anh được sáng mắt, trong lúc người ta tìm mọi cách để kết án Chúa thì anh lại dõng dạc tuyên bố: “Ngài là một tiên tri”(Ga 9,17).
Rất thẳng thắn và cũng rất chân thành. Không có gì là úp mở cả.
Rồi khi người ta dùng áp lực để dọa cha mẹ anh và tiếp sau là đe dọa cả anh thì lúc ấy chúng ta thấy anh trở nên can đảm lạ thường. Dường như anh không còn biết sợ là gì nữa. Thái độ của anh khác hẳn với thái độ của cha mẹ anh. Anh thẳng thắn dõng dạc tuyên bố trước mặt mọi người “Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lờì những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta chẳng làm được gì”(Ga 9,31-33)

2. Bài học
Vâng anh đã được mở mắt. Anh đã được thấy sự thật và anh đã dám gắn bó với sự thật đó và cho dù anh có phải trả một giá rất đắt anh cũng sẵn lòng. Chúng ta không thể hiểu hết những gì anh phải hứng chịu khi người ta dùng một biện pháp kể cả việc trục xuất anh ra khỏi hội đường để trừng phạt anh.
Trước kia anh mù, cuộc sống của anh đã khổ. Bây giờ anh được sáng mất, tưởng như cuộc sống sẽ thuận lợi hơn...ai dè bây giờ cha mẹ anh không dám bênh vực, xã hội chẳng giúp anh được gì.  Chỉ còn một chút hy vọng vào cộng đoàn tôn giáo thì người ta lại trục xuất anh, đưa anh trở lại với cuộc sống còn cô đơn và bất hạnh hơn trước.
Trước đây anh mù nhưng thỉnh thoảng còn có người thi ân bố thí. Có gần anh người ta cũng không phải sợ
Bây giờ khi anh bị trục xuất ra khỏi hội đường, anh sẽ phải tự cách ly với tất cả mọi người. Không ai dám tiếp xúc với anh, không ai dám giao thiệp với anh, không ai dám gần gũi với anh...thật là kinh khủng.
Thế nhưng con người mù này vẫn một lòng can đảm. Đây là môt bài học cho mọi người chúng ta.
Chúng con hãy nghe câu chuyện này:
Abraham từ ngày được Thiên Chúa chọn, ngày càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn và xa cách các thần tượng. Thấy thế, ông thân sinh dẫn Abraham đến trước mặt vua Ramos, nhà vua hỏi Abraham:
- Tại sao ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc ?
Abraham trả lời với giọng cương quyết không hề sợ hãi:
- Tâu hoàng thượng, bởi vì lửa thiêu rụi các thần tượng ấy.
- Như vậy thì hãy tôn thờ lửa - Vua trả lời. Nhưng Abraham đáp:
- Nếu thế, hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt được lửa.
- Thế thì hãy tôn thờ nước.
- Tâu hoàng thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, bởi nước từ mây mà ra.
- Thế thì hãy tôn thờ gió.
Nghe thế, Abraham trả lời vua Ramos:
- Nếu gió là Thiên Chúa thì ta hãy tôn thờ con người, vì con người có hơi thở.
Vua Ramos kiên nhẫn:
- Vậy thì hãy tôn thờ con người.
Abraham trả lời:
- Tâu hoàng thượng, không. Vì con người phải chết.
Nhà vua giận dữ quát lên.
- Vậy thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau cùng Abraham nói:
- Đấng duy nhất phải tôn thờ là chủ tể của cả sự sống và sự chết, đó là Thiên Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau cuộc cãi nhau với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa bởi vì ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn gởi.
Chúng ta cũng hảy can đảm tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người như người mù trong bài Tin Mừng và như Abraham trong câu chuyện vừa nghe. Amen


Học hỏi Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm A


 CÂU HỎI PHÚC ÂM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY NĂM A
Ga 11,1-45
1 Có một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a.2 Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của cô.3 Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.”4 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”
5 Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô.
6 Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở.7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê! “8 Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao? “9 Đức Giê-su trả lời: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời.10 Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình! “
11 Nói những lời này xong, Người bảo họ: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.”12 Các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.”13 Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường.14 Bấy giờ Người mới nói rõ: “La-da-rô đã chết.15 Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.”16 Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy! “
17 Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số.19 Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời.20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà.21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.22 Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.”23 Đức Giê-su nói: “Em chị sẽ sống lại! “24 Cô Mác-ta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.”25 Đức Giê-su liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không? “27 Cô Mác-ta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”
28 Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy! “29 Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su.30 Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người.31 Những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
32 Khi đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.”33Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến.34 Người hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu? ” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.”35 Đức Giê-su liền khóc.36 Người Do-thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy! “37 Có vài người trong nhóm họ nói: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư? “38 Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại.39 Đức Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi.” Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.”40 Đức Giê-su bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? “41 Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con.42 Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.”43 Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! “44 Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”
45 Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.
  1. Đọc Ga 11,1-5; 12,1-3. Đọc thêm Lc 10,38-42. Đức Giêsu có thân thiết với gia đình ba chị em này không?
  2. Đọc Ga 11,4-7. Tại sao Đức Giêsu không trở lại Giu-đê ngay lập tức để chữa cho Ladarô dù Ngài yêu quý anh ấy?
  3. Đọc Ga 11,15. Tại sao Đức Giêsu lại mừng vì đã không có mặt để chữa cho La-da-rô, khiến anh ấy phải chết? Đọc Ga 11,16; 14,5; 20,24-29. Bạn nghĩ gì về tính khí của Tô-ma?
  4. Đọc Ga 11,22.24.39. Chị Mác-ta có  tin Đức Giêsu hoàn sinh được em trai của chị không? Đọc Ga 11,27. Đối với chị Mác-ta, Đức Giêsu là ai?
  5. Đọc Ga 11,32-38. Bạn thấy Đức Giêsu có những cảm xúc bình thường của con người không? Đức Giêsu có hay xao xuyến không? Đọc Ga 12,27; 13,21. Tại sao Ngài lại xao xuyến ở Ga 11,33?
  6. Đọc Ga 11,41-42. Đâu là mục đích của lời cầu nguyện của Đức Giêsu ở trước mộ La-da-rô?
  7. So sánh Ga 11,43-44 với Ga 20,6-7. Bạn thấy có gì khác nhau?
  8. Đọc Ga 11,46-53. Tại sao Đức Giêsu bị Thượng Hội Đồng kết án tử?
  9. Đức Giêsu nhận mình là Sự Sống lại và là Sự Sống (Ga 11,25). Điều đó có đáng tin không?
  10. Đọc Ga 11,4.40. Tại sao cái chết và sự hoàn sinh của La-da-rô lại làm cho vinh quang Thiên Chúa và vinh quang của Đức Giêsu được tỏ hiện?