Thứ Hai, 20 tháng 3, 2017

5 Phút cho Lời Chúa 20/3/2017

Filled under:

VÂNG PHỤC Ý CHA
“Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các Ngài.” (Lc 2,49)
Suy niệm: “Cha mẹ không biết con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” Theo các nhà chú giải Thánh Kinh có thể đây là lần đầu tiên Đức Giê-su tỏ ra Ngài nhận thức Ngài là Con Thiên Chúa trước khi là con Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se, và sứ mạng Người phải chu toàn. Gặp lại con, thánh Giu-se không nói gì, nhưng có lẽ qua ánh mắt của Người, Đức Giê-su đã đọc được ý của Chúa Cha: giờ thi hành sứ mạng của Người chưa đến. Người mau mắn rời bỏ đền thờ, cùng với cha mẹ trở về Na-da-rét tiếp tục đời sống âm thầm vâng phục. Với thánh Giu-se, Đức Giê-su đã học sống thinh lặng, khiêm tốn, vâng phục, từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha, học chu toàn mọi công việc với tình yêu.
Mời Bạn: Bạn hãy đến Na-da-rét để học biết giá trị của đời sống gia đình, xóm làng, của công việc. Với thánh Giu-se bạn sẽ học biết làm cho mọi cái rất tầm thường trong cuộc sống của bạn trở nên phi thường.
Chia sẻ: Bạn có nhận thấy sự hiện diện và ý muốn của Chúa nơi cha mẹ, và những người có trách nhiệm hướng dẫn bạn không?
Sống Lời Chúa: Noi gương Chúa Giê-su sống khiêm tốn, vâng phục ý Chúa qua những người thay mặt Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là gương mẫu cho chúng con trong sự vâng phục ý Cha. Nhờ lời chuyển cầu của thánh Giu-se, xin cho chúng con cũng biết khiêm tốn vâng phục ý Chúa qua trung gian những người thay mặt Chúa để giúp đỡ chúng con.


 THÁNH AMBRÔSIÔ SIÊNA
DÒNG ĐAMINH
(1191- 1286)
Thánh Ambrôsiô sinh tường tại thành Siêna thuộc nước Ý, ngày 16 tháng 4 năm 1191, dưới triều Đức Giáo Hoàng Hônôriô III. Thân mẫu ngài là bà Giutina một thiếu phụ thuộc giòng quý tộc Stribelli và là con lãnh chúa Gilles. Khi lọt lòng mẹ, Ambrôsiô có một thân hình kỳ dị, chân dính liền với đùi và tay dính chặt vào hai bên cạnh sườn, Bà Giutina tủi hổ, cho đó là điều làm nhục gia đình và tổn thương dòng tộc. Chính vì thế sau khi sinh hạ Ambrôsiô, bà Giutina đã trao con cho một người vú nuôi nấng.
Nhưng tình mẫu tử sâu thẳm như biển cả không dễ bị tiêu diệt trong chốc lát. Ngày kia bà ẵm con đến dự lễ trong một thánh đường dòng Đaminh. Trong lúc tâm hồn đang quyện theo lời kinh điệu hát bỗng nhiên bà thấy Ambrôsiô cử động. Đưa mắt nhìn xuống bà vẫn thấy đứa con ngoan ngoãn nằm yên trong lòng. Sau giờ lễ bà gặp một tu sĩ đang mang xương thánh lên bàn thờ. Bà xin phép cho được hôn xương thánh. Khi hôn xong bà lại cho cả hài nhi Ambrôsiô hôn nữa. Vừa đặt miệng hôn xương thánh xong, hài nhi Ambrôsiô kêu lên: "Lạy Chúa Giêsu". Mọi người chung quanh đều bỡ ngỡ, vì một hài nhi chưa đến tuổi mà đã nói được. Họ cũng nhận thấy vẻ mặt của hài nhi lúc này trở nên sáng sủa và hồng hào khác thường. Trước phép lạ nhãn tiền này, mọi người đồng thanh xin cho được xem mặt hài nhi. Ai nấy đều nhận thấy từ khuôn mặt cho tới toàn thân của thánh trẻ đều thay đổi, khuôn mặt em đầy đặn trong sáng; thân hình cân xứng; tay không còn dính liền vào hai bên sườn và chân không còn bám vào đùi nữa. Mọi người đều công nhận đó là một phép lạ. Họ quỳ xuống cảm tạ hồng ân Chúa ban và ca ngợi quyền năng Thiên Chúa, còn nói chi đến niềm hoan lạc của bà Giutina lúc ấy.
Người ta còn kể lại, vào ngày sinh nhật của thánh nhân, những người bản hương đã được xem thấy nhiều điềm lạ. Vào một buổi sáng kia, người ta trông thấy ba mặt trời mọc, và chiều đến lại có ba mặt trăng tỏa ánh sáng dịu hiền xuống trái đất. Cũng ngày hôm đó những người đang làm việc ngoài đồng lại trông thấy điềm lạ: họ thấy một thanh niên mặc áo dòng Đaminh đi đi lại lại trong ruộng của họ. Một học sinh bỡ ngỡ đã đến xin thầy giáo cắt nghĩa điềm lạ đó. Một tu sĩ đã cắt nghĩa cho cậu biết đó là điềm lạ báo cho nhân loại biết cùng một ngày có ba giáo sư đã sinh ra. Người ta để ý và điều tra thì quả thực có ba đấng thánh cùng sinh ra một ngày: thánh Ambrôsiôâ Siêna, thánh Giacôbê Bêvania và thánh Tôma tiến sĩ thành Napôli. Cả ba vị đại thánh này đều thuộc dòng Đaminh. Ứng dụng vào những điềm lạ trên quả thật ba đấng thánh Ambrôsiôâ, Giacôbê và Tôma tiến sĩ là như những mặt trời soi đường dẫn lối cho nhân loại.
Thời gian vẫn dần dần trôi. Đời sống nội tâm của Ambrôsiô ngày một phát triển. Càng ngày câïu Ambrôsiô càng thêm khôn ngoan nhân đức. Trí thông minh và tài ba đức độ của cậu cũng lớn lên theo ngày tháng. Năm lên chín tuổi, Ambrôsiôâ đã bắt đầu một cuộc tĩnh tâm. Cậu quyết định suy tư theo ánh sáng của lý trí và thực hành đường lối tu đức theo như trí khôn của cậu sáng nghĩ ra. Sau đó ít lâu cậu chọn một cha dòng Đaminh làm linh hướng. Cha linh hướng nhận thấy cậu có một trí phán đoán xác đáng và một căn bản tu đức rất chắc chắn.
Thấy thánh nhân ngày càng tiến triển trên đường tu đức, ma quỷ tìm mọi phương khả dĩ vật ngã ngài. Một ngày kia người ta mời thánh nhân tới dự cuộc liên hoan mừng một đám cưới. Trong lúc mọi người say sưa theo lời ca điệu hát thánh nhân bỏ cuộc ra đi vì thấy nguy hiểm đến phần rỗi. Dọc đường thánh nhân gặp một tu sĩ. Ngài tới xin chỉ bảo cho vài lời huấn dụ thiêng liêng. Sau một lúc nói về Mình Thánh Chúa, thầy dong kia dùng lời dịu ngọt khuyên thánh nhân nên kết bạn. Thánh Ambrôsiôâ bỡ ngỡ trước lời nói đó, ngài dơ tay làm dấu thánh giá, tức thì tu sĩ trước mắt biến đâu mất. Thánh nhân biết đó là ma quỷ hiện hình đến cám dỗ. Ngài quỳ xuống đọc kinh tạ ơn Chúa. Sau đó Chúa còn để ngài phải chịu nhiều thử thách khác. Nhưng với ơn Chúa ngài đã vượt qua mọi cám dỗ của ma quỷ.
Năm 17 tuổi chính ngày sinh nhật của ngài, ngày 16 tháng 4, Ambrôsiôâ quyết định đến dâng mình làm tôi Chúa trong dòng Đaminh. Các bề trên trong dòng đều nhận thấy ngài là một tu sĩ thông minh và nhân đức. Sau thời gian khấn hứa trọng thể, ngài được cử đi du học bên Paris trong giảng đường thánh Anbêtô Cả. Ngài rất giỏi về khoa thần học. Nhưng chẳng bao lâu ngài bị sốt nặng. Một ẩn sĩ đến trị bệnh cho ngài. Ngày qua tháng lại, bệnh của thánh nhân vẫn không thuyên chuyển. Bấy giờ ẩn sĩ hứa với thánh nhân sẽ chữa cho ngài khỏi bệnh, nhưng với điều kiện là thánh nhân phải cởi áo dòng và phải vui hưởng tuổi xuân của mình như một thanh niên phần đời. Hơn nữa ẩn sĩ kia còn nói với ngài nếu sống ở ngoài đời thì sẽ làm ích cho nhiều linh hồn và xã hội hơn là sống giam mình khổ cực trong dòng thánh Đaminh. Nhận thấy có một cái gì khác ý trong kiểu cách và lời nói của ẩn sĩ, thánh nhân nghi ngờ. Theo thông lệ mỗi khi bị nguy hiểm, ngài thường dùng khí giới đặc biệt là làm dấu thánh giá cầu nguyện. Khi thánh Ambrôsiôâ vừa làm dấu thánh giá, ẩn sĩ lạ kia liền biến đâu mất. Thánh nhân biết đó là ma quỷ đã tàng hình đến cám dỗ mình. Sau đó ít lâu cơn sốt cũng không còn và càng ngày thánh nhân càng tiến triển trên đường tu đức.
Sau khi tốt nghiệp đại học Paris, thánh Ambrôsiôâ được cử giữ ghế giáo sư thần học tại đại học đường Paris. Lúc làm giáo sư cũng như khi còn là sinh viên, ngài luôn tỏ ra xuất sắc về thần học. Chính vì thế phòng ngài ở đã biến thành một trung tâm nghiên cứu triết lý và thần học. Nhiều giáo sư danh tiếng trong các đại học đường đến gặp ngài tại phòng để cùng ngài giải quyết nhiều vấn đề khúc mắc. Sau thời gian quá bận, ngài xin bề trên cho mình được cấm phòng để chuyên tâm vào việc thờ phượng Chúa. Nhưng với nhu cầu của thời đại và khát vọng cấp bách của dân chúng, bề trên đã giao phó cho ngài nhiệm vụ giảng trong các thánh đường Paris hay thuyết giáo ở các nơi công cộng. Với tài hùng biện sẵn có và với nền tảng triết lý và thần học sâu sắc, thánh nhân đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với cử tọa. Mỗi khi nghe thấy ngài thuyết giáo ở đâu, dân chúng từ kẻ trí thức tới người bình dân đều tấp nập kéo đến để nghe lời giáo huấn khôn ngoan và hấp dẫn của ngài.
Năm 1285, ngài được triệu về thành Siêna để giảng trong mùa chay mặc dầu lúc này ngài đã già yếu. Ngài luôn luôn giữ thái độ hăng hái của một chiến sĩ Phúc âm lúc nào cũng sẵn sàng truyền bá lời Chúa. Một lần kia vì ngài giảng hăng hái và quá nhiều nên một mạch máu nơi ngực đã bị đứt. Anh em trong dòng đều muốn cho ngài tĩnh dưỡng một thời gian. Nhưng với tinh thần nồng nhiệt mến Chúa và tình yêu tha thiết với các linh hồn, ngài vẫn tiếp tục giảng trong Mùa chay. Bài giảng cuối cùng ngài nói về tội cho vay lấy lãi quá nặng. Từ đó không bao giờ người ta còn được nghe lời giáo huấn vàng ngọc và trông những cử chỉ đáng yêu của cha trên toà giảng nữa.
Sau đó ngài bị ho ra máu, tiếp theo là những chuỗi ngày nằm liệt giường. Linh cảm thấy giờ chết đã tới gần, thánh nhân xin chịu các phép và tĩnh tâm vài hôm. Khi giờ hấp hối đã gần đến, các tu sĩ lần lượt đến cầu nguyện cho ngài và xin lĩnh phép lành. Sau khi chịu Mình Thánh Chúa, thánh nhân cố gắng xuống quỳ dưới đất và từ từ trút linh hồn ngày 20 tháng 3 năm 1286 tại tu viện thành Xiên. Thánh nhân hưởng thọ hơn 95 tuổi.
Khi đem giặt khăn giường mà thánh nhân đã đổ nhiều máu, người ta thấy khăn trải giường biến thành mầu hồng rất đẹp và tỏa mùi hương thơm ngát.
Các sử gia biên chép đời sống thánh nhân, đều công nhận ngài đã làm tới 180 phép lạ chính thức, trong đó có 16 phép lạ chữa người chết sống lại. Thấy phép lạ của thánh nhân càng ngày càng nhiều, Đức Giáo Hoàng Hônôriô IV đã cho thiết lập một ủy ban điều tra và ghi chép các phép lạ của thánh nhân. Ủy ban gồm bốn nhà thần học danh tiếng có nhiệm vụ kiểm soát và làm bản phúc trình đệ lên Đức Giáo Hoàng. Nhưng chẳng may công việc đang tiến hành thì nhiều lần lại bị gián đoạn vì những cuộc biến động xẩy ra trên đất Ý. Các Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XIII, XIV và Phaolô V đã ban ơn toàn xá cho những ai đến viếng mộ thánh Ambrôsiôâ vào ngày lễ kính ngài. Ngày 26-2-1597, thánh vụ Bộ Lễ lại ra sắc dụ truyền ghi tên ngài vào Tử đạo thư thành Rôma.
Thánh Ambrôsiô thành Xiên thực là một người tài đức và can đảm, ngài đã khôn ngoan và mạnh bạo vạch trần mọi mưu mô của ma quỷ muốn làm hại cuộc đời ngài. Chúng ta hãy xin Chúa nhờ lời bầu cử của thánh nhân cho chúng ta được sáng suốt để nhận rõ những cám dỗ xảo quyệt của ma quỷ và can đảm chống cự theo gương thánh Ambrôsiô.


Ánh Sáng Ðô Thị

Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot và cũng có lẽ là một trong những cuốn phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề là: "Anh sáng đô thị". Ðó là câu chuyện tình của một gã lang thang và một cô gái bán hoạ
Nàng là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỷ phú trong vùng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Ngày kia, gã lang thang là Charlot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Cô gái bán hoa tưởng chàng là người tỷ phú. Thế là một giấc mộng đã chớm nở và nối kết hai tâm hồn. Nàng tưởng mình gặp được người mình mơ mộng từ lâu nay. Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa của nàng.
Nhưng chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng đã bị cảnh sát giam giữ. Sau một thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho nàng, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng. Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng nhặt lấy. Người con gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: "Cô đã thấy được rồi sao?". Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc. Nàng từ từ nhặt cánh hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: "Anh đấy saỏ". Thế là cả hai đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa
Cuộc gặp gỡ trong bất cứ một cuộc tình nào cũng là hình bóng của cuộc gặp gỡ trong đức tin giữa chúng ta và Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta là những con người có tự do. Do đó Thiên Chúa không nói với chúng ta bằng một ngôn ngữ nào khác hơn là tình yêu. Tình yêu không bao giờ là một cưỡng bách, nhưng là một mời gọi tự dọ
Những người Do Thái thời Chúa Giêsu đòi hỏi những dấu lạ, những bằng chứng hiển nhiên về sứ mệnh của Ngàị "Ông hãy làm cho chúng tôi một dấu lạ".
Ngày nay thì trái lại, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, con người dường như không còn tin ở phép lạ nữa. Tưởng mình có thể chế ngự và làm chủ vũ trụ, con người muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta có thể ngạc nhiên tại sao Thiên Chúa không làm phép lạ nhãn tiền cho những người biệt phái hay cho những kẻ vô thần ngày nay. Tại sao Ngài không viết tên Ngài trên trời để xóa tan mọi nghi ngờ trong lòng người? Thiên Chúa có lối sư phạm của Ngài. Ngài đã không là Thiên Chúa của những điềm lạ cả thể, nhưng là một Thiên Chúa đã chọn lựa làm tôi tớ để chinh phục tình yêu và lòng tín nhiệm của con người. Thiên Chúa không những là một Thiên Chúa của quyền năng ở bên trên con người, nhưng còn là Thiên Chúa ở bên trong con người. Và, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là dấu lạ cả thể nhất, bởi vì đó là dấu chứng của tình yêu Chúa Giêsu đã nói đến dấu chứng đó khi dùng hình ảnh của tiên tri Giona. Giona được Thiên Chúa sai đến cho dân thành Ninivê. Ông tưởng Chúa sẽ dùng ông để làm một dấu lạ cả thể khiến dân thành sẽ tin vào sứ mệnh của ông. Nhưng cuối cùng, qua con người của ông, Thiên Chúa chỉ kêu mời sự hoán cải và tình yêụ
Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta qua những sinh hoạt và những biến cố tầm thường nhất trong cuộc sống. Ngài mời gọi chúng ta nhận ra Ngài trong cái ăn, cái uống, cái mặc, trong tiếng cười, tiếng khóc, trong tất cả mọi gặp gỡ của chúng ta với tha nhân Và ngay cả trong cái chết mà con người cho là điểm cuối cùng của cuộc sống, Thiên Chúa cũng có mặt.
Nhận ra Ngài như cô gái bán hoa đã nhận ra giọng nói của chàng Charlot, đó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Một đức tin trưởng thành không đòi hỏi và thử thách Thiên Chúa, nhưng tín thác và nhận ra dấu chỉ của Ngài qua những cái tầm thường nhất của cuộc sống.