Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2018

5 Phút cho Lời Chúa ngày 25/2/2018

Filled under:


HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI
Từ đám mây, có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9,7)
 Thông thường ta giới thiệu nhau khi mới gặp lần đầu hoặc quen biết nhau rồi, nhưng khuôn mặt bị phai mờ theo thời gian hay bị biến dạng cách nào đó, lúc ấy cần phải giới thiệu lại để người ta có thể nhận biết nhau cách chính xác. Cũng vậy, trong bối cảnh Chúa Giê-su chuẩn bị bước vào cuộc Khổ nạn, khi thân xác Ngài sẽ bị biến dạng bởi những cực hình do con người gây ra, Chúa Cha đã xuất hiện để giới thiệu: “Đây là Con Ta yêu dấu.”Lời khẳng định ấy thì cần thiết, bởi người ta quen nghĩ rằng những gì thuộc Thiên Chúa phải nguy nga, phải lộng lẫy, hoành tráng. Trong khi ấy Thiên Chúa lại hành động qua những gì thế gian cho hèn mạt, không đáng kể... (1Cr 1,27-29). Chính vì thế, cần phải có lời dặn dò của Chúa Cha “Hãy vâng nghe lời Người” để các môn đệ có thể đứng vững trong cuộc Khổ nạn của Thầy mình.
 “Chúa Ki-tô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một” (Dt 13,8). Ngài vẫn là Con yêu dấu của Cha, nhưng đồng thời, Ngài hiện diện giữa nhân loại qua những cách thế rất bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường. Vì thế, nguy cơ vấp phạm về Ngài là rất cao. Liệu rằng chúng ta có dễ dàng “vâng nghe” tiếng của Ngài đang nói qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời Chúa, qua Giáo hội và qua những người bé mọn, nghèo hèn không?
Tập cho mình thói quen đừng bao giờ thắc mắc “tại sao?” trước những hành động của Thiên Chúa. Nhưng nếu không hiểu thì hãy hỏi “việc ấy xảy ra thế nào?” để rồi đáp lời “xin vâng” như Đức Ma-ri-a.


THÁNH TARASIÔ
TỔNG GIÁM MỤC CONTANTINÔPÔLI
(+ 806)
Tarasiô sinh tại Contantinôpôli trong một gia đình quý phái. Được thừa hưởng nơi tổ tiên và nhất là ở bà mẹ một  vốn đạo đức khá phong phú, Tarasiô tiến rất nhanh trên đường trọn lành. Về chức vị phần đời ngài lần lượt lãnh nhận chức chấp chánh quan, rồi làm đổng lý văn phòng tại hoàng cung. Sống giữa triều đình xa hoa, lộng lẫy, giữa những vinh dự và chiều chuộng, ngài vẫn giữ lòng khiêm tốn đặc biệt. Không ham mê danh vọng trần thế. Ngài quý trọng mọi người như nhau, kẻ giầu sang cũng như người nghèo hèn.
Năm 784, lạc giáo bài ảnh tượng bành trướng rất mạnh trong toàn địa hạt Contantinôpôli. Đức Giám mục Phaolô cảm thấy bất lực trong việc hãn ngữ làm sóng lạc giáo, ngài quyết định bỏ tòa Giám mục rút lui vào tu viện để được yên tĩnh phụng sự Chúa. Nghe tin đó, Hoàng đế Contantinôpôli cùng với hoàng hậu Irêna cấp tốc tới tu viện để xin Đức Giáo chủ cho biết lý do từ chức. Đức tổng giám mục cho hết lý do là vì ngài cảm thấy mình bất lực trong công cuộc diệt trừ bọn lạc giáo. Hiện giờ lạc giáo lan tràn khắp địa hạt ngài, ngài không muốn chăn giắt đoàn chiên lạc giáo. Cuối cùng ngài đề nghị chọn vị đổng lý văn phòng của Hoàng đế lên chức Tổng Giám mục thành Contantinôpôli thay ngài.
Chấp thuận lời đề nghị của Đức giám mục Phaolô, Hoàng đế cho triệu vời quan Tarasiô tới cho biết ý kiến của Đức tổng giám mục Phaolô muốn chọn ngài làm Giám mục thành Contantinôpôli. Để khích lệ Tarasiô nhân dịp này, Hoàng đế công khai tuyên bố sẵn sàng bênh vực Giáo hội công giáo. Trước lời thỉnh cầu và khích lệ của nhà vua, Tarasiô chỉ còn biết vâng nghe và nguyện đem hết tâm trí và tài lực để bênh vực Giáo hội đang bị bọn lạc giáo nhiễu loạn, với điều kiện Hoàng đế và dân chúng phải tuân giữ tất cả những gì sáu Công đồng chung của Giáo hội đã chuẩn nhận. Đồng thời ngài yêu cầu triệu tập một công đồng chung để luận phi lạc giáo bài ảnh. Tất cả mọi yêu sách của ngài đều được thỏa mãn, ngài được tấn phong Tổng Giám mục Contantinôpôli ngày 25-12-784.
Người ta có thể thấy nơi Đức Tổng giám mục Tarasiô một đời sống tông đồ gương mẫu. Ngài rất tận tụy với công cuộc truyền giáo, lo cải tổ hàng giáo sĩ, và đặc biệt để ý giúp đỡ những người nghèo túng. Ngài coi công việc giúp đỡ người nghèo khó là phận vụ của Tổng Giám mục. Từ ngày ngài lên chức Giám mục, ngài rất chăm chú tập luyện tất cả các nhân đức và cố gắng trở nên hoàn thiện hơn. Trong các nhân đức của ngài, nổi nhất là đức bác ái. Đối với ngài, đức bác ái là trung tâm điểm của mọi nhân đức và trổi vượt hơn các nhân đức khác. Hằng ngày ngài mời nhiều người nghèo khó tới ăn cùng bàn với ngài và chính ngài đích thân giúp bàn trong khi họ dùng bữa. Ngài ban phát quần áo cho những người rách rưới, giúp họ những gì cần thiết cho cuộc sống. Ngài năng thăm viếng các bệnh nhân, nhất là những người mù què, câm điếc, bất toại trong các bệnh viện hay tại tư gia. Ngài để hết tâm lực vào việc dậy dỗ con chiên, nhất là anh em binh lính là những người bị nhiễm phải nọc độc của bè rối bài ảnh hơn ai hết. Ngài khuyến khích họ tuân giữ các tín điều do sáu công đồng chung đã chuẩn nhận. Vì theo ý ngài, đó là một phương thế chính đáng cho những ai muốn sống trong đoàn chiên Chúa và tránh khỏi miệng sói rừng.
Nhưng để có một đoàn tinh binh can trường, thông thái, được huấn luyện chu đáo, có thể bảo vệ đức tin công giáo cách hữu hiệu và để chống bọn lạc giáo hiện còn đang tiếp tục hoạt động, Đức Tổng giám mục Tarasiô thiết lập một tu viện gần thành Bốtpho (Bosphore). Không bao lâu ngài đã huấn luyện được một lớp tu sĩ thông thái, thánh thiện, can đảm. Các vị là những trụ cột nâng đỡ, bảo vệ đức tin công giáo. Sau đó, ngài bắt đầu thực hiện lời cam kết của Hoàng đế triệu tập một công đồng chung để đưa lại hoà bình cho Giáo hội và phản đối phe lạc giáo. Sau một năm họp công đồng chung, hoàng đề Contantinô và hoàng thái hậu Irêna gửi một thông điệp cho Đức Giáo Hoàng Ađrianôââ tường trình về việc tuyển chọn Tarasiô lên chức Tổng Giám mục, và những kết quả công đồng đã thu lượm được. Trong dịp này Hoàng đế long trọng tuyên xưng đức tin do sáu công đồng chung của Giáo hội đã chuẩn nhạân. Đức Giáo Hoàng viết thư phúc đáp Hoàng đế, chuẩn nhận việc tôn kính các ảnh tượng, công nhận việc Hoàng đế đã lựa chọn Tarasiô lên chức Tổng Giám mục, đồng thời ngài cũng khuyến khích Hoàng đế nên thẳng tay tiêu diệt lạc giáo bài ảnh tượng. Đức Giáo Hoàng cũng viết một thư cho Đức Giám mục Tarasiô trách ngài đã lên chức vị Tổng Giám mục mà không do ngài chọn, nhưng Đức Giáo Hoàng xác nhận việc truyền chức Giám mục có hiệu lực và ngài hoàn toàn chuẩn nhận.
Sau công đồng chung, Đức tổng Giám mục Tarasiô trở về giáo phận. Nhờ gương sáng và những lời khuyên răn khéo léo, ngài đã lôi cuốn được nhiều người lạc giáo trở về với Chúa. Ngài bắt tay vào việc cải tổ hàng giáo sĩ, bãi bỏ những lạm dụng quyền chức, kết án những giáo sĩ phạm tội buôn bán của thánh.
Đức Tổng giám mục Tarasiô rất nghiêm khắc đối với những người gian ác, bất lương, nhưng ngài đầy lòng mến thương, hoà nhã với những người đau khổ, tật bêïnh. Người ta kể lại rằng trong triều có một thẩm phán bị tố cáo là đã hà lạm công quỹ. Hoàng đế truyền bắt giam ông và tra tấn dữ dằn để ông thú tội. Không chịu được những đòn tra tấn ác nghiệt, ông tìm cách trốn thoát. Ông chạy trốn vào nhà thờ nấp ở trên góc bàn thờ. Quân lính biết ông trốn trong nhà thờ, nhưng không dám lùng bắt sợ làm xôn xao nơi thờ phượng. Họ bao vây quanh nhà thờ đợi tối khi ông không chịu được đói khát tức khắc ông phải ra. Đức Tổng giám mục Tarasiô ra tay cứu vớt con người xấu số ấy. Ngài kín đáo đem lương thực đến cho ông ăn để có thể sống được. Quân lính khám phá ra chính Đức Tổng Giám mục đã tiếp tế lương thực cho nạn nhân. Họ xô vào nhà thờ, thấy Đức Tổng Giám mục đang âu yếm ôm tội nhân. Mấy người xông tới giằng phạm nhân khỏi tay Đức Giám mục. Trước sức mạnh vũ phu, ngài đành buông phạm nhân ra và dùng tới thứ khí giới thiêng liêng là ra vạ tuyệt thông tất cả những người đã cả gan lăng mạ ngài. Sáu đó, bằng một cách tích cực hơn, ngài truyền tra xét lại những lời dân chúng đã tố cáo thì thấy rằng ông quan đó vô tội. Ngoài đức bác ái trổi vượt, Đức Giám mục Tarasiô còn là một vị giám mục có đức tính cương quyết khác thường, không chịu khuất phục trước bất cứ một bạo lực nào. Thời đó Hoàng thái hậu Irêna giao quyền trị nước cho con trai là Hoàng đế Contantinô.
Hoàng đế trẻ tuổi rất tốt, nhưng có điều không hay là đã ngộ nhận về quyền hạn của mình. Hoàng đế cho rằng đã là Hoàng đế thì muốn làm gì thì làm. Quyền của Hoàng đế vượt trên tất cả và không bị hạn chế bởi một quyền lực nào hết. Hoàng đế muốn ly dị hoàng hậu Maria để cưới bà quý phái Thêôđôtê, người mà Hoàng đế quá say mê trước sắc đẹp nghiêng thành. Để được danh chính ngôn thuận, Hoàng đế buộc tội cho hoàng hậu là muốn dùng thuốc độc đầu độc Hoàng đế. Đồng thời Hoàng đế đến với Đức Giám mục Tarasiô xin ngài chuẩn nhận. Hoàng đế cứ đinh ninh rằng mọi sự sẽ xuôi xắn như ý mình muốn, ai ngờ ông vua đã vỡ mộng. Đức Tổng Giám mục Tarasiô cương quyết không chấp nhận việc ly dị này, vì đây là một hành động trái ngược với Thiên Chúa đã được chính Chúa Kitô xác nhận trong Phúc âm.
Không đếm xỉa chi tới sự bất đồng ý kiến của Tổng Giám mục, Hoàng đế Contantinô mời linh mục Giuse làm phép cưới cho Hoàng đế và đội triều thiên cho hoàng hậu mới. Đứng trước hành động quá táo bạo của Hoàng đế, Đức Tổng giám mục phải một phen do dự không biết giải quyết ra sao, một đàng sợ Hoàng đế sẽ ra tay bắt đạo và ủng hộ bọn lạc giáo chống đối Giáo hội, một đàng lương tâm Giám mục không cho phép ngài chuẩn nhận hành động vô liêm sỉ đó. Cuối cùng ngài buộc lòng phải áp dụng giải pháp cứng rắn. Hoàng đế rất căm giận khi thấy Đức Tổng giám mục vẫn giữ vững lập trường cũ. Hoàng đế đem lòng thù ghét Đức Tổng giám mục bằng cách tìm cách hãm hại ngài và đoàn chiên của ngài. Tệ hơn nữa, Hoàng đế nâng đỡ bọn lạc giáo phá hại Giáo hội. Nhưng tất cả những nghịch cảnh đó không làm nao núng con tim sắt đá của ngài. Ngài vui vẻ chịu đựng tất cả.
Sau hơn 22 năm cai trị giáo đoàn Côntantinôpôli, tuổi đã cao, sức đã yếu vì chức vụ quá nặng nề, Đức Tổng giám mục Tarasiô ngã bệnh nặng. Trong cơn bệnh mê man, ngài phải chiến đấu một trận chiến ác liệt với ma quỷ. Chúng bầy ra trước mắt ngài những hình ảnh xấu xa. Chúng gán cho ngài nhiều trọng tội mà chính ngài là thủ phạm. Ngài không hề nao núng trước cơn cám dỗ quá dữ dằn. Ngài can đảm chống trả cơn cám dỗ, bác bỏ tất cả những lý lẽ bọn quỷ đưa ra và minh xác cho chúng biết là ngài vô tội. Tất cả những ai tới giúp ngài đều nghe rõ hết những gì ma quỷ đã nói với ngài.
Sau cơn cám dỗ mãnh liệt, Đức Tổng giám mục Tarasiô trút hơi thở cuối cùng giữa sự luyến tiếc của toàn dân. Hôm đó nhằm ngày 25-02-806. Nghe tin Đức Tổng giám mục tạ thế, Hoàng đế Contantinô buồn phiền hơn ai hết. Người ta phải bỡ ngỡ, khi thấy Hoàng đế ôm xác Đức Tổng Giám mục khóc nức nở. Các tu sĩ, người nghèo khó, cô nhi quả phụ, các tù binh đều đau đớn chịu tang người cha chung, vị đại ân nhân của họ. Xác ngài được an táng tại nhà thờ tu viện Bốtpho.
Từ đó Thiên Chúa làm rất nhiều phép lạ trên mộ ngài. Lần kia, một thiếu phụ bị bệnh băng huyết rất nặng. Các lương y đều ngã lòng. Tuy nhiên, bà ta vẫn tin tưởng ở quyền lực Thiên Chúa. Bà tin tưởng: nếu như bà tới mồ thánh Tarasiô kêu xin, chắc chắn bà sẽ được khỏi bệnh. Nhưng phiền một nỗi, nơi đây là nơi thánh không cho phép phụ nữ được tự tiện lui tới. Bà tìm hết cách để có thể vào được chỗ chôn xác thánh nhân. Cuối cùng bà đành phải cải trang làm đàn ông, mới vào lọt. Tới mộ thánh nhân, bà quỳ gối khẩn khoản xin thánh nhân chữa bệnh cho bà. Lòng tin tưởng quá mạnh khiến bà lấy một chút dầu đèn chầu thắp trước mộ thánh nhân mà uống. Lập tức bà được khỏi bệnh.
Cũng có một người đàn ông bị đau mắt rất nặng. Ông tới mộ thánh nhân kêu xin thánh nhân. Ông lấy dầu đèn chầu thắp trước mộ bôi vào mắt. Ngay lúc đó bệnh đau mắt biến mất. Ngoài ra còn rất nhiều người què quặt, mù loà, quỷ ám và nhiều chứng bệnh bất trị khác đã được thánh nhân chữa khỏi.
Những phép lạ đó, chứng tỏ quyền thế của vị thánh Giám mục nơi "Đấng đã làm vinh danh cho chính mình khi ban vinh hiển cho các thánh". Khi sinh thời, thánh nhân đã chỉ lo tìm vinh quang Thiên Chúa và mưu ích cho Giáo hội, thì giờ đây là lúc Chúa ban vinh hiển cho tôi trung của Người và Giáo hội, người mẹ hiền từ sẽ nâng con cái mình lên đài danh dự.


Dân Thành Athènes

Ngày kia, triết gia Esopos người Hy Lạp ngồi bên vệ đường trước cổng thành Ethènes. Một người khách lạ tình cờ đi qua dừng lại hỏi ông như sau: "Dân thành Athènes như thế nàỏ".
Triết gia bèn trả lời: "Xin ông cho tôi biết ông đến từ đâu và dân tình ở đó như thế nàỏ". Người khách lạ nhíu mày cằn nhằn: "Tôi đến từ Argos và dân Argos toàn là một lũ người láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày".
Một cách bình thản, triết gia Esopos mỉm cười đáp: "Tôi rất lấy làm buồn để báo cho ông biết rằng rồi ra ông sẽ thấy dân thành Athènes còn tệ hơn thế nữa".
Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi: "Dân thành Athènes như thế nàỏ". Người khách lạ ấy cũng cho biết mình đến từ Argos là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải rời xa, bởi vì dân chúng Argos là những người rất dễ thương, dễ mến...
Lần này, triết gia Esopos cũng biểu đồng tình với người khách lạ như sau: "Này ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng ông sẽ nhận thấy dân thành Athènes cũng dễ thương dễ mến như thế".
Câu chuyện mang tính cách ngụ ngôn trên đây muốn nói với chúng ta rằng cách thẩm định người khác tùy thuộc ở tình cảm của mỗi ngườị Cùng một con người ấy, cùng một khung cảnh ấy, nhưng có người ưa, có kẻ chê. Sự khác biệt trong cách thẩm định ấy thường không nằm trong người khác hoặc cảnh vật khác, mà chính là ở tâm trạng của mỗi ngườị Thi sĩ Nguyễn Du đã có lý khi bảo rằng: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để có cái nhìn lạc quan về các biến cố và con người, nghĩa là chúng ta được mời gọi để luôn có cái nhìn tích cực về người khác và các biến cố. Một thất bại rủi ro xảy đến ư? Người Kitô hãy cố gắng khám phá ra những đường nét dễ thương dễ mến trong khuôn mặt, trong cách cư xử của người đó. Chúng ta hãy làm như loài ong: từ giữa bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, loài ong chỉ rút ra toàn mật ngọt...
Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã ghi trong nhật ký của Ngài như sau: "Do bản chất, tôi vui vẻ và sẵn sàng chỉ thấy những khía cạnh tốt đẹp của sự vật và con người hơn là phê bình chỉ trích và đưa ra những phán đoán độc hạõ. Mỗi một cử chỉ khiếm nhã đối với bất cứ ai, nhất là những người nghèo hèn, thấp kém, hoặc bất cứ một chỉ trích phá hoại nào, đều làm cho tôi đau lòng".