Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017

Gia đình dâng hiến: Ba anh em, ba linh mục

Filled under:


Khi ơn gọi Giáo hội công giáo ở Phương Tây đang trên đà đi xuống thì một gia đình ở Mỹ dâng hiến ba con trai của mình cho Giáo hội.
Theo hãng tin AP cho biết, họ là Luke, Vincent và Jake thuộc gia đình Strand, tất cả ba ae đều đáp lời kêu gọi của Chúa, lời kêu gọi đã có từ lâu qua bà ngoại Ruth của gia đình, bà cầu nguyện hết sức hết lòng để làm sao chỉ có một trong ba cháu của bà làm linh mục. Lúc nào bà cũng lặp đi lặp lại với các cháu: “Có thể nào một trong ba các con làm linh mục không?” Và các cháu vừa cười vừa trả lời bà: “Dám lắm!” Người anh cả Luke nhớ lại: “Không khi nào chúng tôi nghĩ đến chuyện đi học để thành linh mục”.
“Ơn gọi là món quà của Chúa!”
Cuối cùng, tất cả mọi người đều ngạc nhiên khi ba anh em thay phiên nhau đi tu, trước hết, ba anh em có khát khao được tận hiến cho chức thánh. Anh Luke cho biết: “Bỗng nhiên ơn gọi linh mục đến trong đầu tôi. Tôi ngạc nhiên vì tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện này trước đó”. Rồi đến Jake, người em út: “Mới đầu tôi nghĩ, không thể được, làm sao tôi lại được gọi để phục vụ Giáo hội; với tôi công việc này là của anh Luke. Cuối cùng tôi hiểu, đây hoàn toàn không phải là công việc ... mà đúng là một món quà của Chúa!”
“Bà con thường hỏi chúng tôi, làm sao chúng tôi dạy các con để chúng chọn được đời sống như vậy. Thật khôi hài, vì chúng tôi thật sự chẳng làm gì đặc biệt: các con chúng tôi nhận được giáo dục cổ điển nhất: thể thao, vui chơi với bạn bè, đi học.. .”, cha mẹ ba anh em cho biết.
Ba anh em cùng chọn một con đường ... và cùng gặp các khó khăn giống nhau! Khó khăn chính yếu là lời khấn giữ độc thân.

Tại sao các vợ chồng tín hữu kitô phải mang nhẫn?

bởi phanxicovn
Nhẫn cưới không phải là một biểu tượng, nó nói lên các đức tính vững bền. Dù làm bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng hay bất cứ hợp kim nào, chiếc nhẫn mang rất nhiều giá trị mà Giáo hội đã biến chiếc nhẫn thành biểu tượng cho giao ước bất khả phân ly của hai vợ chồng.
Nơi người Do Thái và người Rôma – người ta còn ngờ rằng ở các dân tộc lương dân – người đàn ông có truyền thống mang nhẫn vào ngón áp út cho vợ mình, như bằng chứng của sự tin tưởng. Ngày xưa đó là bản sao một chiếc vòng hay một dấu ấn mà người chồng mang ở ngón trỏ của mình, đặt người đàn bà dưới quyền của mình. Phong tucï phổ biến ở tầng lớp khá giả hơn là người thường.
Ngày nay, truyền thống này không có cùng ý nghĩa như ngày xưa. Người đàn ông đàn bà ở bất cứ thành phần nào đều trao nhẫn trong ngày lễ cưới như dấu chỉ của tình yêu, họ mang nhẫn ở ngón áp út trái.
Phong tục này có từ thế kỷ thứ 6 trong hôn nhân của các tín hữu kitô, sau đó được lan ra khắp toàn thế giới. Ở một vài nước, các chiếc nhẫn này được “long trọng” đặt trong chiếc gối nhỏ và một em bé mang lên cho cô dâu chú rể.
Khi cử hành bí tích hôn phối, linh mục rảy nước thánh lên nhẫn và mời đôi tân hoan trao nhẫn, họ thề hứa trưởng thành với nhau suốt đời.
Hôn nhân, một ơn gọi
Dĩ nhiên nghi thức này không bắt buộc phải có trong bí tích hôn phối, cũng không có một giá trị nào để chứng thực cho hôn nhân. Nhưng nhẫn cưới cũng có thể mang khía cạnh thiêng liêng theo hình ảnh chiếc nhẫn ngư ông của Đức Giáo hoàng khi ngài nhận vào đầu triều giáo hoàng của mình hoặc nhẫn của hàng giáo sĩ như của các hồng y, giám mục, các nữ tu ...

Từ một chiếc vòng kim loại, chiếc nhẫn cưới được làm phép, được nâng giá trị và nó trở thành vật dụng thiêng liêng, nhắc cho cô dâu chú rể nhớ, hôn nhân cũng là một ơn gọi, cần có những từ bỏ, những hy sinh thánh hiến.
Dấu hiệu cầu nguyện của Giáo hội dành cho con cái mình, chiếc nhẫn thể hiện một sự trợ giúp thiêng liêng và có thể có sức mạnh loại được các cám dỗ và sự dữ đưa đến việc ngoại tình.
Còn hơn cả một hành vi yêu thương, trung tín hoặc bổn phận vợ chồng, mang nhẫn luôn là một cách tốt để bảo vệ vì có lời nói, khi một cặp vợ chồng kết hiệp, Thiên Chúa gởi một thiên thần đặc biệt đến bảo vệ họ để họ thành một da một thịt. Họ không là hai nhưng là một cho đến khi cheat: “Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mc 12, 25).
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch