Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2016

5 Phút cho Lời Chúa 8/4/2016

Filled under:


CHÚA VẪN LÀM PHÉP LẠ
“Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Chúa Giê-su nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” (Ga 6,9-10)
Suy niệm: Các môn đệ hết sức lúng túng khi Chúa bảo họ phải lo ăn cho đám đông người đang đói. Thực phẩm họ có trong tay có thấm vào đâu với số người này! Đối với các môn đệ, ‘không thấm vào đâu’ cũng có nghĩa không có gì hết để lo cho đám đông. Nhưng, ý nghĩ của họ khác nhiều với ý muốn của Chúa. Như Đức Bênêđitô đã nói: phép lạ này không được làm từ không có gì, nhưng từ những gì bạn có, dù nhỏ bé, mang đặt trong bàn tay của Chúa. Chúa không đòi hỏi chúng ta những gì chúng ta không có. Chúa cho chúng ta hiểu rằng, nếu mỗi người đặt vào tay Ngài những tấm bánh, những con cá bé nhỏ, Chúa sẽ làm cho phép lạ được tiếp diễn hôm nay, bởi Ngài có quyền năng làm cho những cử chỉ yêu thương khiêm tốn của chúng ta trở thành quà tặng lớn lao cho anh chị em chúng ta.
Mời Bạn: Chúa đã trao cho Quà Tặng kỳ diệu là Thân Mình Ngài để nuôi sống bạn. Vậy, nếu hôm nay bạn có năm chiếc bánh và hai con cá, bạn có dám đặt vào tay Chúa để phép lạ được diễn ra không? Nếu hôm nay bạn có mười chiếc bánh và bốn con cá, bạn dám trao vào tay Chúa không? Vì vậy, vấn đề không phải ở số lượng bạn có, mà ở tấm lòng của bạn, phải không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày, bạn quảng đại đặt vào tay Chúa một món quà, một ước nguyện, để phép lạ xảy ra.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã sống lại để con vững tin rằng, trong thế giới hôm nay, Chúa đang sống với đầy đủ quyền năng của Đấng Phục Sinh và đang làm muôn điều kỳ diệu.

CHÂN PHƯỚC GIULIANÔ, TU SĨ DÒNG THÁNH PHANXICÔ
(+ 1606)
Khi bè rối Canvanh (Calvin) nổi lên, ông Anrê người tỉnh Tôlôsa buộc lòng phải rời bỏ quê hương để khỏi mất đức tin vì những sai lạc của bè rối. Ông di cư tới miền Medina Coeli thuộc tỉnh Castilla và làm công cho một người chủ tiệm thuộc da tên là Antôni Cedillo. Ông chủ này vì cảm nết của Martinef nên đã lo cho người thợ của ông kết hôn với một cô gái miền Aquaviva tên là Catarina Guttierz cũng là người làm công trong nhà ông. Đó là lai lịch hai ông bà thân sinh của chân phước Giulianô.
Được cha mẹ đạo đức trông nom giáo dục, cậu sớm biểu lộ những xu hướng tốt lành: nhu mì, từ tốn, vâng lời; cậu biết lánh xa những bạn cùng tuổi để tìm vui sướng trong những giây phút yên lặng quỳ trước nhà chầu hay trong khi dự lễ. Được gửi đi học may tại nhà một người thợ may, cậu biết lợi dụng những thời giờ nhàn rỗi để tới nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Những lúc đó đôi mắt cậu đăm đăm tay chắp lại và vẻ mặt nghiêm trang sốt sắng như thiên thần. Vì có chí hướng muốn tu dòng, Giulianô cầu nguyện xin ơn Chúa soi sáng và bàn hỏi với cha giải tội. Ngài được mặc áo dòng thánh Phanxicôâ tại dòng các anh em đi chân không thuộc tỉnh dòng thánh Giuse, Giulianô vui sướng đến ngây ngất. Vì quá sốt sắng, ngay từ buổi đầu, Giulianô đã thực hành những việc hãm mình rất ghê sợ; và đó cũng là lý do khiến thầy phải trải qua nhiều gian nan điêu đứng. Các tu sĩ sợ rằng sự hãm mình nhiệm nhặt của thầy Giulianô là do một tinh thần ngông cuồng và cao hứng, hơn là kết quả của một tâm hồn đạo đức chín chắn, nên các thầy đã tước áo dòng của Giulianô và đuổi thầy về. Lòng ngao ngán nhưng vẫn một niềm tuân theo thánh ý Chúa, người thanh niên đó lui về miền Santôca gần tỉnh Tolêđô sống với nghề thợ may cũ. Tuy bận công việc làm ăn để sinh sống, nhưng Giulianô vẫn không sao nhãng một việc đạo đức nào. Nhiều lúc Giulianô bồi hồi luyến tiếc những ngày sốt sắng êm đềm xưa.
Sau biến cố đó ít lâu, cha Phanxicô Torrès dòng họ Phan có dịp đi kinh lý qua Santôca. Ngài nhận thấy lòng đạo đức thánh thiện của Giulianô hiện rõ trên nét mặt, nên cha tỏ ý mời thầy Giulianô làm bạn đường với mình trong các cuộc kinh lý, Giulianô nhận lời ngay vì thấy đó là dịp thuận tiện để làm tông đồ. Khoác tấm áo của một du khách, thầy theo gót nhà truyền giáo trên mọi nẻo đường. Mỗi khi vào xóm làng nào, thầy liền chạy rảo qua các đường ngõ, tay rung chuông kêu gọi mọi người tới ghe giảng. Nhiều người động lòng sốt sắng vì đức khiêm nhu và lòng đạo hạnh của thầy Giulianô. Nhưng lời Chúa phán vẫn còn ứng nghiệm: "Kẻ làm tiên tri không được trọng đãi nơi quê nhà". Vì thế một ngày kia, tại Mêđinô Caeli, các người đồng hương chỉ trích thầy là người điên dại. Thầy chỉ mỉm cười đáp lại một cách nhã nhặn rằng: "Vâng, các ông nói phải, tôi điên thật, nhưng là điên vì tình yêu Chúa mà thôi".
Trái lại, cha Torrès hiểu rõ tâm hồn thầy hơn ai hết; cha cảm phục đức tin chân thành của thầy Giulianô. Riêng thầy cũng vì tin tưởng cha, người mà thầy đã giãi bày cho hết nỗi niềm tâm sự và những ước mong của mình, nên thầy đã khẩn khoản xin cha can thiệp để thầy lại có thể trở về nhà tập như cũ. Dẫu sao, cha Torrès cũng không muốn xử sự một cách hồ đồ hấp tấp. Chỉ khi đã biết chắc chắn ơn thiên triệu đặc biệt của thầy, cha mới giới thiệu cho người con thiêng liêng của mình vào tu viện Đức Bà ở Salcêđa. Thỏa lòng mong ước, thầy Giulianô từ nay càng hăng hái hy sinh, gia tăng số ngày chay tịnh và sống nhiệm nhặt khắc khổ khác thường; mỗi ngày thầy lại sáng nghĩ ra một việc hãm mình đền tội mới. Một lần nữa, lòng nhiệt thành say sưa với đời sống khắc khổ ấy lại đưa thầy đến chỗ khổ tâm hơn. Cũng như lần trước, các tu sĩ lại tin rằng thầy bị loạn trí hay loạn óc. Họ lại tước áo dòng và mời thầy ra khỏi nhà.
Bị xử tệ một lần nữa như thế, thầy Giulianô cắn răng tự nhủ: "Tôi tin rằng tôi có ơn thiên triệu làm tu sĩ, với áo dòng hay không có cũng không hệ. Tôi nhất định sẽ là tu sĩ". Rồi thầy mặc áo người đời và lui về một quả núi gần tu viện để sống đời chiêm niệm và sám hối. Ngày ngày thầy đến trước cửa nhà dòng dậy giáo lý cho đám người nghèo khổ; cũng như thầy, họ đến để xin nhà dòng làm phúc. Sau khi nhận được mẩu bánh do thầy giữ cửa phân phát cho, thầy lại trở về chốn tịch liêu cũ. Có một ngày trên đường về, thầy gặp một người ăn mặc quá rách rưới. Động lòng thương xót, thầy cởi áo mình và mặc cho người đó. Hôm sau, thầy giữ của mỉa mai quở trách thầy: "Anh đã giầu có, vì có áo cho người khác rồi, còn đến đây làm gì nữa". Thây Giulianô chỉ trả lời nhã nhặn: "Thưa thầy, người nghèo khó đó cần chiếc áo đó hơn tôi". Thầy giữ cửa đem truyện thuật lại cho các tu sĩ nghe. Vì cảm nết tốt của Giulianô, các tu sĩ liền cho thầy một tấm áo cũ giống như chiếc áo của những người nhà tập. Để tỏ lòng biết ơn các tu sĩ, Giulianô đã tình nguyện đi lạc quyên giúp nhà dòng. Các người dân quê, vì tôn kính và mộ mến thầy như một vị thánh, nên ai nấy đều rộng tâm bố thí. Những của lạc quyên được thầy đều mang hết về cho thầy giữ cửa, chỉ giữ lại một mẩu bánh nhỏ để nuôi thân.
Dần dà các tu sĩ cảm động và thán phục đức xả kỷ anh hùng của thầy Giulianô. Một lần nữa các tu sĩ lại mở cửa để đón nhận Giulianô. Sau một năm nhà tập, thầy được chính thức gia nhập cộng đồng và làm lễ khấn dòng trọng thể. Một lần nữa được toại nguyêïn, thầy lại đem hết sức hăng hái để tiến tới trên đường trọn lành. Cha Torrès lại ngỏ ý cho thầy Giulianô theo mình. Cả nhà đều thoả thuận như ý cha và để thầy Giulianô theo cha. Đời sống của tu sĩ trẻ tuổi ấy thực đã nói lên cách hùng hồn hơn những bài giảng thuyết của cha Torrès; đôi khi Chúa cũng đặt trên môi miệng thầy những lời nói lạ lùng làm cho ai nghe cũng động lòng cảm phục. Thi hành nhiệm vụ xong, hai thầy trò lại trở về tu viện Acala.
Sau một thời gian, thầy Giulianô lại được cử đi Ocagna để giúp việc lạc quyên cho tu viện Đức Bà Là Sự Cậy Trông. Nhưng chỉ qua một thời gian ngắn rồi thầy lại trở về tu viện Acala sống những ngày còn lại một cách sốt sắng. Cuộc đời của thầy từ đây có thể nói là một chuỗi ngày chay tịnh. Đêm đến thầy ở lại nhà thờ; những lúc yên lặng ấy, thầy quỳ gối cầu nguyện không chán, vẻ mặt thầy sáng ngời và đẹp đẽ như thiên thần. Khi đi lạc quyên, thường tiện đâu thầy ngủ đấy; có khi thầy qua suốt đêm ở ngoài trời mặc cho thời tiết nóng nực hay lạnh lẽo. Thầy lấy roi đánh tội đến chảy máu mình. Càng khiêm tốn nhận mình tội lỗi bao nhiêu, lại càng làm khổ thân xác mình bấy nhiêu; thầy chỉ coi mình như một người khốn nạn hơn hết; bị người ta khinh chê nguyền rủa, thầy vui mừng chứ không hề mủi lòng, oán trách. Được đi lạc quyên như vậy, thầy lấy làm hứng thú vì được dịp để tập hãm mình và khinh chê. Vì lòng khiêm tốn thẳm sâu, đôi khi có làm phép lạ nào, thầy cũng thường cho rằng đó là Đức Mẹ hoặc một vị thánh nào đó đã làm.
Yêu Chúa thắm thiết, thầy cũng giầu lòng bác ái với tha nhân; thầy càng chuyên chú và lo lắng hơn đến linh hồn mọi người. Ngoài những lúc cầu nguyện cho người ngoại giáo, rối đạo và tội lỗi trở lại, thầy lại còn năng lấy lời ngon ngọt để khuyên nhủ họ. Nhờ lời ngài khuyên dụ, nhiều người Hồi giáo trở lại, một số đông kẻ tội lỗi cải tà qui chính, trong số đó có những phụ nữ xấu nết. Nhưng nhất là ngài đã kịch liệt phản đối những lối khiêu vũ mà ngài cho rằng đó là nguồn gốc mọi sự hỗn loạn, tội lỗi. Vì có uy tín và được mọi người kính nể yêu mến, nên nhiều khi ngài đã thành công trong việc ngăn cản hay phá đổ những cuộc khiêu vũ. Người ta cũng đã kể lại nhiều tích truyện chứng tỏ ngài có quyền sai khiến cả đối với những ác thú. Ngài chữa nhiều người tật bệnh nan trị được khỏi, hóa thức ăn cho ra nhiều, chặn đứng được ngọn lửa của đám cháy đang tung hoành. Ngài cũng được ơn nói tiên tri và biết sự kín: nhiều lần các giáo sư đại học Acala đến hỏi thầy Giulianô về nhiều vấn đề rất hóc búa, các giáo sư đều trở về và ai nấy ngạc nhiên hết sức vì những lời giải đáp thông thạo của thầy. Chúa còn ban thưởng cho thầy được hai đức tính rất quí là: đơn sơ và hồn nhiên vô tội; đó là hai nhân đức Chúa yêu cách riêng và nhờ đức tính đó các vị thánh có thể yên hàn ngả mình trong cánh tay Chúa toàn năng như đứa con thơ nép mình vào lòng cha vậy.
Cuối cùng, Chúa đã cho thầy biết ngày giờ giã thế của mình. Thầy chịu các phép sau hết với lòng sốt sắng gấp hai. Mặt thầy sáng hẳn lên như có phát hào quang. Mắt thầy từ từ nhắm lại và thầy lịm dần đi như một ngọn đèn hết dầu. Thầy từ trần ngày 8-4-1606.
Được tin thầy Giulianô qua đời, từ giáo sĩ, các giáo sư đại học cho đến cả những người giầu có và toàn dân ai ai cũng bùi ngùi thương nhớ. Họ chạy đến tu viện Acala để phúng viếng xác thầy dòng nhân đức ấy. Thi hài vị thánh được trưng bày trong 18 ngày để mọi người đến phúng viếng, rồi sau đó mới chôn cất. Một điều lạ, là trong thời gian đó, xác thánh vẫn không lộ một dấu vết hư thối nào, trái lại còn toả một mùi hương thơm ngát. Nhiều phép lạ xảy ra trong dịp này càng đặt thêm nền tảng vững chắc cho việc tôn kính thầy Giulianô như một vị thánh. Để xác nhận lòng sùng mộ của giáo dân đối với thầy, năm 1825 Đức Giáo Hoàng Lêô XII đã phong thầy Giulianô lên bậc chân phước.