Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016

5 Phút Cho Lời Chúa 18/4/2016

Filled under:


THẬP GIÁ, CĂN CƯỚC KI-TÔ HỮU
“Thật, tôi bảo thật  các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp.” (Ga 10,1)
Suy niệm: Các ki-tô hữu bị bách hại thời đế quốc Rô-ma đã dùng dấu hiệu con cá để nhận diện nhau. Những ai không biết mật hiệu ấy ắt hẳn không thuộc cộng đoàn mà có thể là “kẻ trộm, kẻ cướp.” Ngày nay, các nhân viên khi đến cơ quan làm việc phải xuất trình thẻ căn cước để xác nhận mình thuộc về công ty, chứ không phải là kẻ gian phi đến để phá hoại. Căn cước một người thuộc về Đức Ki-tô không nằm ở tấm thẻ bên ngoài mà ở chính cuộc sống của họ được đóng dấu ấn thập giá, khi họ đi qua cánh cửa là Đức Ki-tô, đó là dấu ấn của người mục tử đích thực “liều mạng sống mình vì đoàn chiên” (Ga 10,11).
Mời Bạn: Giữa lòng thế giới hôm nay, trước những quan niệm thế tục về cuộc sống con người; thay vì Thiên Chúa, người ta tôn thờ tiền bạc, quyền lực, lạc thú; nhiều lúc chúng ta cũng đã hoang mang, có khi chao đảo: Đâu là dấu hiệu thuộc về Đức Kitô một cách đích thực? Phải chăng lắm khi bạn đang để “kẻ trộm, kẻ cướp” -là những gì không mang dấu ấn thập giá của Đức Ki-tô- đột nhập vào cuộc sống của bạn, của gia đình, cộng đoàn bạn? Bạn nhớ, dấu ấn ki-tô hữu chính là thập giá Chúa Ki-tô.
Chia sẻ: Có khi nào bạn để mình bị “ăn trộm” mất căn tính ki-tô hữu của mình chưa? Bạn làm thế nào để lấy lại?
Sống Lời Chúa: Chọn thực hiện một giá trị Tin Mừng để sống đúng căn tính ki-tô hữu của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đến để cho mọi người được sống và sống dồi dào. Xin cho con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác nơi Chúa, và để cho Lời Chúa dẫn dắt cuộc đời con.


THÁNH APÔLLÔNÔ, NGHỊ VIÊN, TỬ ĐẠO
(+ kh. 185)
CHÂN PHƯỚC PHANXICÔ RÊGI CLÊTÔ
(174-1820)
THÁNH APÔLLÔNÔ, NGHỊ VIÊN, TỬ ĐẠO
(+ kh. 185)
Thánh Apôllônô là một nghị viên thời danh, tử đạo vào quãng năm 185 dưới thời Hoàng đế Commođô. Chúng ta tuyệt nhiên không biết gì về đời sống của thánh nhân, trừ một bản văn rất giá trị ghi lại những lời đối chất giữa thánh nhân với quan án trong hai phiên toà. Phiên toà thứ nhất, quan lãnh sự Pêrenniô hách dịch hỏi thánh tử đạo:
P. Này Apôllônô, ngươi là Kitô hữu phải không?
A. Thưa phải, tôi là Kitô hữu, tôi tôn thờ Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên trời, đất, biển và tất cả vạn vật trong vũ trụ.
P. Ta truyền cho nhà ngươi phải bỏ đạo Giêsu, và vâng lệnh Hoàng đế Commođô, là thầy tối cao của chúng ta.
A. Không, tôi không thể nghe theo lời quan, tôi thề quyết chỉ tin một Thiên Chúa chân thật, toàn năng và vĩnh cửu.
P. Thôi đừng nói dài dòng, đổi ý đi, hãy dâng hương tế thần và hôn kính ảnh Hoàng đế.
A. Tôi đã thưa với quan rằng tôi không thể đổi ý theo lời quan được. Còn việc dâng hương tế thần, xin quan hãy nghe rõ lời tôi nói: tôi và mọi người công giáo, chúng tôi hằng dâng tiến Thiên Chúa lễ vật thiêng liêng. Hơn thế, chúng tôi vẫn cầu nguyện Thiên Chúa là vua hiển trị trên trời phù hộ Hoàng đế Commođô.
P. Vì thương ngươi, ta cho ngươi đủ giờ suy nghĩ. Ngươi đừng dại chọn lấy cái chết ngu xuẩn.
Kết thúc phiên toà thứ nhất, quan lãnh sự cho điệu thánh tử đạo về ngục. Mấy hôm sau ngài lại bị dẫn ra toà. Ông Pêrenniô vẫn ngồi ghế chánh án. Khác với lần trước, phiên toà này hiện diện nhiều nghị viên, nhiêu vị cố vấn và các nhà thông thái. Khai mạc phiên toà, quan án cho đọc lại biên bản lần trước. Và đây là cuộc đối chất bắt đầu.
P. Apôllônô, ngươi đã quyết định chưa?
A. Như ông biết, tôi đã quyết định và chỉ quyết định trung thành với Thiên Chúa thôi.
P. Thượng nghị viện đã quyết định về ngươi rồi. Ta khuyên ngươi hãy đổi ý, thờ thần linh để cùng vui sống với chúng ta.
A. Tôi đã biết những quyết định của nghị viện, nhưng tôi là tôi tớ Thiên Chúa, tôi không thể thờ các thần linh giả trá của các ông.
Thánh tử đạo còn tiếp tục cắt nghĩa cho mọi người nghe tại sao ngài từ chối không thờ các thần linh, mà chỉ thờ một Thiên Chúa. Ngài cũng nêu lên những sai lầm trong việc thờ phượng các vật vô hồn và các thảo mộc.
P. Này Apôllônô, ngươi hãy nhớ rằng: theo quyết định của nghị viện thì "tất cả các người công giáo đều không có quyền sống".
A. Tôi biết lắm, nhưng quyết định của con người xác thịt không khi nào chống lại được ý muốn của Thiên Chúa. Người ta càng tàn sát người công giáo, Thiên Chúa càng tăng thêm con số giáo dân. Tôi nhắc để các ông nhớ là Thiên Chúa đã ra lệnh cho mọi người phải chết dù giầu hay nghèo, tự do hay nô lệ, lớn hay bé, khôn ngoan hay dốt nát. Và chết rồi, mọi người phải chịu phán xét. Đành rằng có nhiều cách chết, nhưng người công giáo chúng tôi vì hằng ngày đã chết khỏi dục vọng, nên chúng tôi không còn phải sợ khi được chết vì Thiên Chúa. Dù chúng tôi sống, dù chúng tôi chết, chúng tôi vẫn thuộc về Thiên Chúa.
P. Apôllônô, vậy ra ngươi đã quyết định rồi? Ngươi bằng lòng chết?
A. Thưa quan, sống cũng quý thực, nhưng chết vì Thiên Chúa còn quý hơn nhiều.
P. Ta không hiểu ngươi muốn nói gì.
A. Ông không hiểu ư? Phải, cũng như người mù không nhận được ánh sáng, con người tội lỗi như ông làm sao thấu hiểu được những ý tưởng siêu nhiên!
Một triết gia dự phiên toà đứng lên phát biểu ý kiến: "Này Apôllônô, ngươi đừng tự làm khổ ngươi. Lời ngươi nói gàn dở lắm".
A. Tôi biết cầu nguyện và không biết nói lời bất công. Còn đối với các ông, những người không muốn nhận sự thật, thì chân lý bị coi là viển vông khó hiểu.
P. Người ta thường bảo: "Ngôi Lời Thiên Chúa dựng nên hồn và xác người công chính. Vậy ngươi hãy nói cho chúng ta nghe về Ngôi Lời Thiên Chúa xem.
A. Ngôi Lời Thiên Chúa chính là Chúa chúng tôi. Ngài đã xuống thế làm người tại xứ Giuđêa. Ngài là Đấng rất công chính. Nơi Ngài chan hoà sự khôn ngoan của Chúa. Ngài yêu thương hết mọi người. Chính Ngài dạy chúng tôi biết Thiên Chúa thật, biết cùng đích của con người. Ngài đã chịu trăm ngàn đau khổ để cứu chuộc chúng tôi. Ngài cũng dạy chúng tôi phải đè nén tính nóng giận, tiết chế các dục vọng, cầm hãm thói mê ăn uống, khai trừ mọi âu lo, để tâm thi hành bác ái, phát triển tình yêu và mong đợi phần thưởng vĩnh cửu đời sau… Ngài lấy lời nói việc làm dạy chúng tôi. Và tất cả những ai được Ngài ban ơn lành cho đều làm vinh danh Ngài. Nhưng quân dữ đã giết Ngài như đã hành quyết các người công chính, trước khi Ngài đến. Vì lẽ đối với kẻ hung dữ và tội lỗi, đời sống người công chính là lời trách móc thâm sâu. Như lời chép trong Kinh Thánh: "Chúng ta phải khai trừ người công chính vì chúng ta không thể kham nổi y" (Is. III, 10). Chính quân dữ mù quáng vì lòng ghen ghét đã đóng đanh Thầy Chí Thánh của chúng tôi. Trước Ngài, các tiên tri đã báo trước điều ấy. Chúng tôi phải tôn kính Ngài trên hết, vì Ngài đã dạy chúng tôi biết chân lý cao siêu để sống: như sự bất tử của linh hồn, sự phán xét và sự sống lại đời sau...
P. Thôi ta nghe đủ rồi, ta ước mong ngươi mau đổi ý trở về thờ thần linh và vâng lệnh Hoàng đế.
A. Còn tôi, tôi mong mỏi quan và các người chung quanh quan mau mở mắt linh hồn nhìn nhận chân lý hằng sống.
P. Ta muốn giải thoát các ngươi nhưng lệnh Hoàng đế Commođô ngăn cấm ta. Ngươi biết, ta luôn luôn xử với ngươi rất nhân đạo.
A. Xin Thiên Chúa trả ơn cho quan lớn.
Theo lệnh quan toà và các nghị viên, mấy tên đao phủ xông tới đánh đập thánh tử đạo cách thậm tệ. Sau cùng chúng chém đầu ngài.
Thánh Apôllônô đã về trời, nhưng ngài vẫn như nói với chúng ta: "Hỡi người giáo hữu, bạn hãy dâng cả mạng sống cho Người. Hãy dùng tất cả đời sống mà làm chứng cho Người. Như thế, bạn mới xứng đáng thuộc lớp "người được chọn giữa loài ngườị" (Dt. 5,1).
-o0o-
CHÂN PHƯỚC PHANXICÔ RÊGI CLÊTÔ (174-1820)
Hôm nay Giáo hội cũng kính nhớ thánh Chân phước Phanxicô Rêgi Clêtô. Thánh nhân sinh tại Gratianôpôli năm 1748 trong một gia đình công giáo nhân đức và quyền thế. Chúng ta không biết gì về thiếu thời của thánh nhân. Chỉ biết ngài nhập dòng Lagiarít cũng gọi là Hội các linh mục thừa sai. Ngài mãn năm nhà tập và theo khoa thần học tại Lion, sau đó ngài được bổ nhiệm làm giáo sư đại chủng viện Annêcy. Năm 1788, vâng lời cha bề trên cả, cha Phanxicô trở về Paris giữ chức Giám đốc nhà tập dòng Lagiarít.
Cuối năm 1791, cha khấn trọn đời và được phái sang Trung Hoa thay thế một cha thừa sai khác. Được tin, cha Phanxicô rất vui mừng: cha biên thư tỏ bầy niềm hân hoan với người chị và xin chị giúp chuẩn bị cuộc xuất hành truyền giáo của cha. Cha Phanxicô xuống tầu tại Lorient ngày 3-4-1791. Sau mấy tháng lênh đênh trên mặt biển, cha đã cập bến Macao. Rồi cha giả trang đi sâu vào Trung Hoa lục địa, tới tỉnh Giang Tây. Vì phải vất vả học tiếng bản xứ, lại không hợp khí hậu nên dần dần cha bị nhiều thứ bệnh nguy hiểm. Dầu vậy cha vẫn nhiệt tâm làm việc cứu rỗi các linh hồn. Cha từng đi bộ từ Giang Tây đến Hồ Bắc và Hồ Quảng. Trong cuộc truyền giáo lén lút này, cha đã thu được nhiều kết quả. Nhưng đã đến ngày Chúa muốn cha giảng đạo bằng máu đào!
Vậy có một người ngoại giáo đến tố cáo cha với quan tỉnh. Được dịp lập công hiếm có, quan tỉnh cho quân bao vây để bắt "Tây dương đạo trưởng". Ngày 16-6-1819 cha bị bắt tại một họ đạo gần tỉnh Hà An phủ. Bắt được cha, quan truyền đập đánh và tra hỏi nhiều lần. Quan nài ép cha phải tố cáo những nơi ẩn núp của các vị thừa sai khác. Nhưng cha chỉ trả lời bằng một tiếng "Không"…
Thấy vô hiệu quả, quan tỉnh truyền giải nộp cha cho toà án tỉnh Phúc kiến.
Suốt 20 ngày đường mệt mỏi, cha Phanxicô như một con mồi ngon trong tay những tên lính cục cằn và vũ phu. Họ bắt cha đeo gông và mang xiềng sắt. Nhưng điều làm cha an ủi là ngày cuối lần giải toà này, cha được gặp một chiến sĩ đức tin anh dũng, là cha Máccô Sơn, một linh mục bản xứ. Cùng bị giam với cha còn mười tín hữu bản quốc khác. Tất cả họ đều cương quyết trung thành với đức tin. Vì cùng bị giam ở một trại nên họ tổ chức nhiều buổi đọc kinh và khích lệ nhau bền vững với phúc tử đạo. Hơn thế, trước khi ra toà, cha Phanxicô còn được một linh mục bản quốc khác tên là Hà Kính lẻn vào trại cho ngài chịu lễ. Rước Chúa vào lòng, cha Phanxicô tràn ngập sung sướng và thấy phấn khởi lạ thường. Đáp lại những lời dụ dỗ và đe loi của quan toà, cha chỉ trả lời bằng câu vắn tắt nhưng rất cương quyết: "Tôi sẵn sàng chịu chết vì Chúa và anh em tôi". Trước thái độ cứng rắn của cha Phanxicô, quan toà đành lòng cho ngài về trại giam và làm biên bản đệ lên Hoàng đế.
Trở về ngục thất, cha Phanxicô ngày đêm cầu nguyện dọn lòng nhận ngành lá tử đạo, như lời cha đã viết trong tù: "Tôi vẫn chuẩn bị để chịu chết". Và cha còn luôn lập lại lời thánh tông đồ: "Nếu tôi sống là sống vì Chúa Kitô. Vậy chết đối với tôi chỉ là một phần thưởng". Và ngày mong ước đã tới. Theo sắc lệnh Hoàng đế cha bị án trảm. Vì thế, ngày 1-4-1820 cha bị điệu ra pháp trường để kết liễu đời truyền giáo. Chưa thỏa giận, quan còn truyền vất xác cha xuống sông Hồng. Hiện nay tại Paris, các cha dòng Lagiarít còn giữ lại được chiếc áo cha mặc khi bị hành quyết.
Cha Phanxicô được phong chân phước năm 1900 dưới triều Đức Giáo Hoàng Lêô XIII. Thánh nhân đã về trời, nhưng hạt giống thấm nhuần mồ hôi nước mắt và máu đào của cha đã nẩy mầm, lớn mạnh, và đang sai hoa kết quả; đó là Giáo hội Trung Hoa ngày nay.