Thứ Năm, 9 tháng 3, 2017

Công Giáo Thế Giới ngày 08.3.2017

Filled under:


Đức Thánh Cha: Hãy sử dụng Kinh Thánh giống như điện thoại di động

Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi kinh truyền tin: tôi mong ước rằng chúng ta sẽ sử dụng Kinh Thánh giống như điện thoại di động của chúng ta
PopeFrancis-07Mar2017-6.jpg

Đức Thánh Cha nói rằng Lời Chúa, Kinh Thánh, phải có tầm quan trọng đối với một Kitô hữu như chiếc điện thoại di động của anh ta.

Trong buổi truyền tin ngày Chúa nhật, Đức Thánh Cha đã sử dụng lối so sánh này để giải thích rằng Kinh Thánh phải không thể thiếu được.

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

“Chuyện gì sẽ xảy ra? Chúng ta có trở lại khi chúng ta đã quên Kinh Thánh không? Nếu các con quên di động của các con thì: ‘Ồ không! Tôi đã không mang theo nó, tôi sẽ trở về và tìm cho ra nó’; và nếu chúng ta đọc tin nhắn của Thiên Chúa chứa trong Kinh Thánh như cách chúng ta đọc tin nhắn trong di động của chúng ta thì sao?”

Đức Thánh Cha nhắc lại rằng các bài đọc ngày hôm nay chỉ ra Chúa Kitô có thể từ khước những cám dỗ của ma quỷ là nhờ Lời Chúa. Ngài kết luận rằng việc suy niệm dựa trên Lời là một vũ khí giúp các Kitô hữu vượt qua những trở ngại làm cho ta xa rời Thiên Chúa.

Cho đến ngày thứ sáu tới, đây là hoạt động trước các tín hữu cuối cùng của Đức Thánh Cha. Vì trưa cùng ngày, ngài sẽ cùng với các bề trên của giáo triều Rôma lên đường để bắt đầu tuần linh thao, chính xác là để suy niệm Tin Mừng.


Giuđa và sự nguy hiểm của việc mất đức tin

Ariccia - Bài suy niệm cha Michelini gửi đến Đức Thánh Cha và giáo triều Roma sáng ngày 08/03 có các chủ đề rất mạnh mẽ và thực tế: “Nguy hiểm đánh mất đức tin, tự tử, sứ mạng của Giáo hội trong việc tìm kiếm người tội lỗi.”
PopeFrancis-07Mar2017-5.jpg

Trọng tâm của bài suy niệm xoay quanh nhân vật Giuđa, một trong 12 tông đồ. Sự phản bội của Giuđa là một biến cố gây tai tiếng và khó chịu, nhưng Tin mừng không che dấu chuyện này. Thảm kịch cũng được tỏ rõ với sự hối hận của Giuđa, mà theo thánh Mátthêu, ông biết mình đã phạm tội vì đã phản bội máu người vô tội.

Giuđa và chúng ta: nguy hiểm đánh mất đức tin

Cha Michelini đã tìm hiểu các nguyên nhân đã thúc đẩy Giuđa phản bội Chúa Giêsu. Giả thiết thứ nhất là có một lúc nào đó, Giuđa đã mất niềm tin.

Nguy hiểm mất đức tin khiến tất cả chúng ta phải tự hỏi: “Nếu có lẽ trong cuộc đời chúng ta, có nhiều ngày chúng ta không bỏ rơi Chúa Kitô, sự hiểu biết tốt nhất của chúng ta, tình yêu chúng ta, bởi một điều phù hoa, khoái lạc, lợi lộc, an toàn, oán ghét hay trả thù? Chúng ta khó mà biện hộ cho mình khi nói với sự ghê tởm về kẻ phản bội. Giuđa cho chúng ta thấy chính chúng ta.”

Cha Michelini nhắc lại kinh nghiệm của tác giả Emmanuel Carrère được thuật lai trong sách “Vương quốc”. Ông đã tìm lại đức tin 3 năm, rồi lại mất đức tin. Người ta thấy cuộc chiến đấu nội tâm của một người mà vào ngày thứ 6 Tuần Thánh viết rằng ông sẽ đi dự lễ Phục sinh ngay cả nếu tôi không còn tin vào cuộc Phục sinh của Chúa Kitô, nhưng  thêm rằng: “Con bỏ Chúa. Chúa không bỏ con.”

Giả thiết thứ hai về sự phản bội của Giuđa: ông muốn Chúa Kitô tỏ ra mình là Đấng Cứu Thế của Israel, đấng giải phóng, chiến sĩ và chính trị gia. Do đó, Giuđa không còn nhìn thấy gương mặt của Giêsu Thiên Chúa nhưng là một vị thầy Do thái, một người thầy, và Giuđa muốn buộc Ngài làm những gì ông muốn.

Đi tìm dân ngoại và các người thu thuế trên các nẻo đường

Ý tưởng suy niệm thứ hai mà cha Michelini gợi ý là điều gì chúng ta có thể làm cho những người xa lìa đức tin. Cần phải đi tìm người tội lỗi. Cha cũng đã kể lại kinh nghiệm của mình.

“Tôi sống với một cộng đoàn những người trẻ; mỗi năm họ thực hiện 2 tuần đại phúc (các khóa giảng trong các dịp Mùa Chay hay mùa Vọng,vv.). Tôi trêu đùa họ bởi vì họ đi nhảy múa ca hát trên đường phố, đi vào các vũ trường và các quán rượu. Vì là giáo sư, tự nhiên tôi không cho phép mình làm những điều như thế và cho nên tôi đã trêu ghẹo các anh em của mình. Và đã nhiều năm, từ khi dạy học, tôi không còn thực hiện các tuần đại phúc. Nhưng họ biết là tôi đề cao công việc này vì thực tế là có những người đi đến những nơi đó, nơi có những người mà chúng ta không muốn thấy, những người trẻ thất vọng … Cho nên ngay cả nếu chúng ta không làm công việc này, chúng ta phải biết ơn và tương trợ cho những người đi trên các nẻo đường để tìm kiếm, như Chúa Giêsu nói, dân ngoại và những người thu thuế.”

Cha Michelini lưu ý là hành trình của Giuđa đã đưa ông đến chỗ tự tử sau khi nhận ra tội của mình. Trong tác phẩm “Những cuộc đính hôn” của Alessandro Manzoni, trình bày  cuộc trở lại của một người vô danh, có ý định tự tử cho đến khi ông nghe tiếng chuông. Trong ký ức của ông vọng về những lời: Thiên Chúa tha thứ nhiều điều bởi một hành động thương xót. Sau đó, người này đã gặp Đức Hồng y Federigo Borromeo và ngài tiếc là đã không đi tìm người này trước. Đây là những trang sách mời gọi đi tìm người tội lỗi.

Cha Michelini cũng nhắc lại lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong một bài giảng ở nhà nguyện thánh Marta khi giả thiết là các Linh mục đã xua đuổi Giuda, ngài nói về vấn đề giáo sĩ trị: Giuda bị khước từ, kẻ phản bội và ăn năn, không được chấp nhận bởi các chủ chăn, những người trí thức tôn giáo với nền luân lý đạo đức được thực hành bởi lý trí của họ và không bởi mạc khải của Thiên Chúa.

Vấn đề tự tử trong thời đại chúng ta. Giúp các Kitô hữu không bị mất đức tin

Cha Michelini không quên nhắc đến thực tại với các vụ tự tử được trợ giúp và các người trẻ tự tử. Cha đưa ra một câu hỏi: “Chúng ta có thể giúp các Kitô hữu trong thời đại chúng ta thế nào để không mất đức tin, để ý thức lại về đức tin đúng nghĩa, điều mà Tân Ước nói là đức tin vui mừng, toàn thể, gắn kết với Chúa Giêsu, chúng ta có thể làm gì để các vụ tử tử này không xảy ra?”



Chúa Giêsu chấp nhận để Thánh ý Chúa Cha được thực hiện

Chiều ngày 07/03, tại nhà tĩnh tâm Thầy Chí Thánh ở Ariccia, cha Michelini tiếp tục bài suy niệm thứ 4 về đề tài “Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu và Chúa Giêsu bị bắt” (Mt 26,36-46).
PopeFrancis-07Mar2017-3.jpg

Thi hành Thánh ý Chúa Cha

Đầu tiên, cha Michelini so sánh hai lần cầu nguyện của Chúa Giêsu , trên núi Tabo và trong vường Ghết-sê-ma-ni. Hai sự kiện có những tương đồng nổi nật: Chúa Giêsu bị thử thách. Trên núi Tabor, Phêrô và hai tông đồ Gioan và Giacôbê không hiểu ý nghĩa lời loan báo lần thứ nhất của Chúa Giêsu về cuộc khổ nạn của Ngài. Còn trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Chúa Giêsu vừa loan báo rằng một người sẽ trao nộp Ngài. Trong cả hai biến cố, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê đều cùng đi với Chúa Giêsu nhưng họ không hiểu những điều đang xảy ra với Ngài.

Sự khác biệt giữa hai biến cố: trên núi Tabo, Chúa Giêsu nghe tiếng của Chúa Cha an ủi Ngài, nhưng ở vườn Ghết-sê-ma-ni, (trừ thánh sử Luca nói về việc Chúa Giêsu được củng cố thêm sức trong cuộc chiến bởi các thiên thần), không có tiếng nói nào. Ngược lại, Chúa Giêsu hướng về  Chúa Cha, khi chấp nhận để Thánh ý tốt lành của Chúa Cha được thực hiện. Thánh ý này không muốn Chúa Con phải chết, nhưng là ơn cứu độ. Chúa Giêsu đến để cứu chuộc dân Ngài, trong đó có thế giới.

Sô phận cay đắng phải chết – hình thức mới của ơn cứu độ

Cha Michelini nói tiếp rằng sứ vụ Chúa Cha trao phó được thực hiện trong cái chết cay đắng và cái chết này trở thành hình thức mới của ơn cứu chuộc, điều bây giờ đối với chúng ta là ơn cứu chuộc trong nghĩa tinh tuyền và đơn giản. Dụ ngôn các tá điền sát nhân cũng cho chúng ta thấy một người cha gửi con mình đến vườn nho với suy nghĩ “họ sẽ kính trọng con mình” (Mt 21,37). Nhưng lời loan báo của Chúa Giêsu cũng như chính Ngài đã không được đón nhận và Vương quốc Chúa Cha sẽ chuyển sang một hình thức khác mà Chúa Giêsu được mời gọi đón nhận ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Như thế, tùy theo sự sẵn sàng của con người mà Chúa Giêsu có thể thi hành sứ vụ của Ngài. Sự đóng cửa lòng của thế giới không cho phép Ngài là hoàng tử hòa bình…. Do đó, Đấng Mêsia trở thành người bị hủy diệt. Lễ hy sinh của Ngài trở thành hiến tế sự chết.

Chúa Giêsu còn mời gọi các môn đệ của Ngài, như Ngài đã thực hiện ở Ghết-sê-ma-ni, yêu Thiên Chúa với hết tâm hồn và sức lực cho đến hy sinh mạng sống.

Suy tư

Thái độ của chúng ta trước phiền muộn đau khổ của người xung quanh. Chúng ta mở mắt nhìn và cầu nguyện hay chúng ta ngủ quên như 3 môn đê.

Có phải Thánh ý Chúa đối với chúng ta giống là điều thất thường, như điều “phải làm” bởi vì “Ai đó đã quyết định”, hay tôi thấy đó là Thánh ý tốt lành cho tất cả.

Giả định là Thánh ý cứu độ không thay đổi, tôi có chấp nhận rằng cách thức mà Thánh ý được thực hiện bị điều kiện hóa, bởi vì sự toàn năng của Thiên Chúa bị chặn đứng trước tự do của thụ tạo?
Nếu Thiên Chúa thay đổi ý, như sách ngôn sứ Giona nói Ngài có thể hồi ý (x. Gn 3,10), làm sao mà Giáo hội không thể thay đổi, tại sao chúng ta có thể bám giữ sự cứng nhắc của mình?



Tìm lại hiệp nhất xung quanh Bữa tiệc ly của Chúa Giêsu

Đề tài của bài suy niệm thứ 3 trong tuần tĩnh tâm của Đức Thánh Cha là “Bánh và thân thể, rượu và máu”
PopeFrancis-07Mar2017-4.jpg

Cha Michelini chú giải đoạn Tin mừng về Bữa tiệc ly (Mt 26,20-35).

Ăn cùng nhau

Bài suy niệm khởi đi từ một yếu tố đặc trưng cho chiều kích nhân loại của việc cùng ăn. Chúa Giêsu ngồi vào bàn cùng với 12 tông đồ. Ngồi cùng bàn muốn nói đến cảm nghiệm nét đẹp của ở cùng với nhau và nhận cùng thứ được chuẩn bị cho một hành động yêu thương. Theo thánh sử Gioan Tông đồ, chính Chúa Giêsu Phục sinh cũng đã chuẩn bị thức ăn cho các môn đệ của Ngài, bên bờ hồ Galilê (x. Ga 21,9).

Ăn uống: sự yếu đuối và tội lỗi của con người

Thức ăn và ăn uống cũng đưa ra ánh sáng tội lỗi của con người cũng như tính ích kỷ và sự yếu đuối của con người. Chúng ta nhớ đên biểu tượng Thánh kinh của sự bất tuân đầu tiên xảy đến do thức ăn (St 3,1) và tội ác đầu tiên, giết một người anh em, xảy đến do lòng ghen tức của Cain đối với lễ vật của Aben (St 4,4). Chúng ta cũng không quên sự chia rẽ giữa các anh em, Giacóp và Esau là bởi cơn đói (st 25,34). Chúng ta còn có thể đi xa hơn nữa, cho đến khi đọc thông điệp Laudato si’ nói về sự ích kỷ đối với lương thực.

Trong thực tế, ăn uống là dấu hiệu đầu tiên của sự yếu ớt mong manh thật sự về mặt nhân chủng học: một nhu cầu con người và yếu kém. Ăn uống trước hết là nhận sự sống bên ngoài mình, nghĩa là nhận biết mình không độc lập. Nói khác đi, nhận ra giới hạn của mình. Ăn cùng với người khác là thú nhận với người khác giới hạn này của thụ tạo. Bởi lý do này, các thiên thần trong Thánh kinh không ăn uống.”

Bữa Tiệc ly: Chúa Giêsu trao ban tất cả

Trong bữa tiệc ly của Chúa Giêsu nổi bật yếu tố này: Giuđa trao nộp Chúa. Nhưng Chúa Giêsu, trong đêm bị phản bội, đã không thu hồi món quà của Ngài, đã ban tất cả những gì Ngài có thể trao: thân mình Ngài và máu Ngài (1Cor 11).

Ngôi Lời, Chúa Con, đã dâng hiến ngôi vị thần linh của mình, dù là Thiên Chúa nhưng Ngài đã không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa (Phil 2,6). Giờ đây Ngài trao ban chính bản tính nhân loại, là thân xác ngài, bởi vì trong thân xác này mà Ngôi Lời đã làm người. Bằng cách thức này, Chúa Giêsu trao ban tất cả chính mình, không giữ lại điều gì.

Ơn tha tội

Bài học của thánh Mátthêu về bữa Tiệc ly nêu bật một điểm mà chúng ta chỉ tìm thấy ở đây, máu đổ ra từ thập giá để tha tội lỗi. Cuối cùng, ai đọc Tin mừng này, tìm ra ý nghĩa của tến Giêsu và có thể biết cách thức tha tội, cách thức mà Con Thiên Chúa và cùng với Ngài, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng thực hiện để trao ban sự sống. Như Thánh vịnh 49,8 nói, con người không thể tự đền hay trả giá cho mình xứng hợp, chỉ Thiên Chúa chuộc đền con người khỏi chính họ và khỏi sự dữ.

3 vấn đề suy tư

Cha Michelini đưa ra 3 câu hỏi suy tư: thứ nhất, nói về tương quan chúng ta với thức ăn. Xét mình với quy luật thứ 7 của thánh Inhaxio: Cần tránh để tâm hồn chú ý đến thứ mình ăn và tránh ăn vội vã vì ngon miệng, trái lại cần làm chủ mình, trong cách ăn cũng như trong số lượng.”

Thứ hai: các Kitô hữu chúng ta làm sao có thể phải tìm ra sự hiệp nhất xung quanh bàn ăn, thực hiện cùng cách thức chia sẻ của chúng ta sự chia sẻ linh độn của cộng đoàn Corintô.

Cuối cùng là vấn nạn về ơn tha tội. Chúng ta có thật sự ý thức rằng Chúa Giêsu đã đổ máu Ngài ra, với chính sự sống và không chỉ với lời nói, đã nói và đã trao ban sự tha thứ của Thiên Chúa.



(Chuyển dịch: Minh Trị, S.J., dongten.net 08.03.2017/