XOÁ BỎ KHOẢNG CÁCH
“Có một ông nhà giàu kia… ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó, tên là La-da-rô… thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no.” (Lc 16,19-21)
Suy niệm: Trong mọi thời đại, luôn có ‘nhà giàu’ và ‘người nghèo’, hình thành một khoảng cách ‘vô danh’, mà muốn lấp đầy, người ta phải nỗ lực bền bỉ ‘quên mình’ và ‘nghĩ đến’ người khác. ‘Nhà giàu’ bị lên án không phải vì ‘giàu’, mà vì không biết ‘nghĩ đến’ người khác. Chúa Giê-su đả kích giới Pha-ri-sêu vì họ chỉ nghĩ đến mình, nên họ không thể ‘mở lòng’ ra cho tha nhân và cho sứ điệp Phúc Âm. Ông nhà giàu cố tình quên rằng: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3,27), nên đã sử dụng tài sản chỉ cho riêng mình, gia đình mình, có khi sử dụng một cách phung phí, thậm chí bất công. Chỉ có một điểm chung giữa nhà giàu và người nghèo: đó là cả hai đều phải chết; và lúc đó, khoảng cách giàu-nghèo mà người giàu không muốn lấp đầy trong cuộc đời này vẫn còn tồn tại mà còn gia tăng gấp bội và đảo nghịch ngôi thứ ở đời sau: người nghèo trở nên giàu có trong ‘yến tiệc’ đời đời, còn nhà giàu trầm luân trong ‘lửa không hề tắt’.
Mời Bạn: Bạn đang ở trong tình trạng nào? Giàu hay nghèo? ‘Giàu của’ hay ‘giàu lòng’? ‘Nghèo của’ hay ‘nghèo lòng’? Bạn bằng lòng với tình trạng hiện tại, hay muốn nỗ lực vươn lên?
Sống Lời Chúa: Làm một việc bác ái để góp phần ‘xoá bỏ khoảng cách’ với những người đang gặp khó khăn hoạn nạn hơn mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, ‘trong khi mỗi người chúng con vất vả làm việc, cũng như lúc gia đình được vui mừng hoặc gặp thử thách, xin cho chúng con biết luôn tin tưởng vào Chúa quan phòng’.
THÁNH ABRAHAM
ẨN SĨ
(+400)
Thánh Abraham là một vị thánh ẩn tu danh tiếng mà không một người
công giáo nào không biết tới. Lịch sử đã để lại vài nét đời sống của
ngài như sau:ẨN SĨ
(+400)
Xuất thân tự một gia đình quý tộc tại Êdêssea, Abraham được sống những ngày thơ ấu êm đềm. Vừa qua tuổi thơ ấu, Abraham được cha mẹ cho đi học ngay. Ngày ngày hai buổi Abraham cắp sách tới trường; cậu đã tỏ ra là một học sinh ưu tú khiến cha mẹ cậu sung sướng và hãnh diện vì có một người con thông minh và đức hạnh để nối dõi tông đường. Mặc dầu sinh trưởng trong gia đình quý tộc, sống trong bầu không khí xa hoa giữa chợ người, Abraham càng lớn càng thêm khôn ngoan nhân đức.
Rồi năm tháng trôi qua, Abraham đã thành một thanh niên cường tráng, tài ba đức độ. Thấy con đã lớn ông bà thân sinh ngỏ ý tìm cho con một người bạn trăm năm. Lúc đầu Abraham xin cha mẹ hoãn lại một thời gian để trau dồi thêm kiến thức. Nhưng sau đó, mỗi lần nói tới chuyện lập gia đình cho con là mỗi lần ông bà bị khước từ. Rồi một ngày kia song thân và họ hàng thân quyến đến ép Abraham phải kết bạn. Họ tìm một thiếu nữ duyên dáng nhất vùng để làm lễ thành hôn cho Abraham. Tiệc cưới được tổ chức rất long trọng. Người ta ăn mừng bảy ngày trước khi làm lễ thành hôn; ai nấy đều hân hoan và say sưa trong men rượu; chỉ riêng Abraham lại có vẻ đăm chiêu khác thường. Chiều thứ bảy, khi mọi người đang say sưa trong đám tiệc, nghe những điệu hát du dương thì tiếng Chúa đã đến thức tỉnh tâm hồn người thanh niên tài ba đức độ kia. Trong tâm hồn trong sạch của Abraham Chúa đã gieo mầm ơn thiên triệu làm ẩn sĩ. Đến nay mầm ấy đã chớm nở. Abraham nhất định đoạn tuyệt danh vọng, khoái lạc và tiền tài để theo tiếng Chúa. Không chút bịn rịn, Abraham dứt áo lên đường. Cánh chim bằng đã tung mây vượt gió quyết tận hiến đời sống để tuân theo ý Chúa. Đêm hôm đó, trong ánh sáng úa vàng của mảnh trăng cuối mùa, Abraham bí mật trốn đi, ngược lên miền sơn cước. Mặc dầu biết rằng thái độ đó sẽ làm cho gia đình phải mang tiếng và song thân phải tủi nhục, nhưng Abraham vẫn cương quyết ra đi theo tiếng gọi của Chúa. Abraham quả xứng đáng là môn đệ trung thành với lời Phúc âm: "Kẻ nào theo Ta mà không ghét cha mẹ vợ con, anh chị em mình và cả chính đời sống mình nữa, kẻ ấy không đáng làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình và không đi theo đường lối của Ta, cũng không đáng làm môn đệ Ta ".
Một chiếc lều tranh thô sơ đứng chênh vênh thu mình dưới lùm cây khô và tiều tụy. Đối với khách du hành, đó chỉ là một gian nhà hoang vu, nếu không phải là một chuồng nuôi gà vịt. Nhưng đấy là ngôi nhà của một người đã thoát tục. Sau 10 ngày tìm kiếm Abraham khắp mọi hang cùng ngõ hẻm từ đô thị, đến thôn quê, người ta đã thấy Abraham đang quỳ gối cầu nguyện trong gian nhà tiều tụy kia cách thành phố quãng hai cây số. Ngăn cản bằng lời nói không được, ông bà thân sinh mang danh vọng chức quyền và hứa sẽ cho Abraham hưởng tất cả gia tài nếu trở về kết bạn và sống với gia đình. Nhưng tiền tài và danh vọng đâu có dễ làm mềm lòng người thanh niên muốn theo tiếng Chúa. Abraham quyết ở lại tĩnh tu trong ngôi nhà thô sơ kia. Ngày ngày ngài sống bằng của bố thí; người ta mang bánh và nước lã đến cho ngài. Cứ thế dòng dã 10 năm trường, Abraham ẩn tu trong gian nhà thô sơ ấy và hằng ngày người ta thường nghe thấy lời ca điệu hát văng vẳng trong bãi hoang.
Khi được tin song thân đã từ trần và để lại cho mình một gia tài kếch sù, Abraham cũng không muốn trở về. Ngài đã nhờ một người bạn thân lo liệu các việc trong gia đình và bán gia tài để lấy tiền làm phúc bố thí cho kẻ nghèo khó. Còn ngài, ngài vẫn sống với một gian nhà thô sơ, một nệm rơm, một bình nước, mấy mẩu bánh khô và một tấm áo che thân; đó là gia sản mà ngài vẫn yêu thích. Abraham thực là nghèo khổ và trần trụi trước mặt người đời, nhưng trước mặt Chúa, ngài là một phú gia và là một bức gương sáng ngời những nhân đức.
Gần thị trấn Êđêsa là quê hương của Abraham, có một thôn xóm gồm toàn những người lương và lạc giáo rất ác cảm với người công giáo; họ thường bắt bớ và hành hạ các tín hữu Chúa Kitô. Trước cảnh huống đau lòng đó, Đức Giám muc giáo phận đã phái một số giáo sĩ đến với hy vọng cải hóa họ bằng đời sống gương mẫu thánh thiện và giáo thuyết công giáo. Nhưng vô hiệu quả, những người địa phương chẳng những không để cho các ngài sống yên thân mà còn hành hạ ngược đãi các giáo sĩ. Biết không thể chung sống với lớp người bán khai kia, đoàn giáo sĩ truyền giáo đành phải xin Đức Giám mục cho phép rút lui. Đức Giám mục giáo phận liền nghĩ ngay đến ẩn sĩ Abraham, vì biết ngài là một người nhân đức, có thể thành công trong công việc truyền giáo cho đoàn người dữ tợn ấy. Đức Giám mục đã đích thân đến ngỏ ý muốn cho Abraham chịu chức linh mục, rồi đi truyền giáo cho đoàn người bán khai ở xóm Beth-Kiduna. Lúc đầu thánh nhân khẩn khoản xin Đức Giám mục cho mình được ẩn tu trong gian nhà nhỏ để đền tội. Nhưng sau cùng, vì thấy thánh ý Chúa tỏ cho mình qua lời khuyến khích của đấng bề trên, ngài đành phải cúi mình vâng theo thánh ý Chúa.
Sau khi thụ phong linh mục, Abraham vâng lời Đức Giám mục đến chung sống với đoàn người lạc giáo và bán khai. Công việc đầu tiên của tân linh mục Abraham là xây dựng trong xóm đó một thánh đường nguy nga. Rồi thánh nhân suốt ngày hãm mình ăn chay cầu nguyện, suy niệm lâu giờ trong thánh đường, ngài van nài Thiên Chúa hãy ban ánh sáng soi đường dẫn lối cho những người con bất trung đã bỏ Chúa và thờ phượng ngẫu tượng.
Sau đó ngài rảo bước qua khắp hang cùng ngõ hẻm trong xóm để quan sát hoàn cảnh xã hội và mức sinh hoạt của dân địa phương. Hễ thấy ở đâu có những ngẫu tượng, ngài liền thẳng tay đập phá. Dân ngoại giáo thấy vậy kéo nhau mang gậy và đá ra đánh thánh nhân. Họ đánh ngài gần chết, rồi vứt bên cạnh một con đường hẻo lánh. Lúc tỉnh dậy thánh nhân thấy chân tay vấy máu và mình mẩy đầy vết thương. Một cảm giác nặng nề chạy khắp thân thể. Trong đêm tối, thánh nhân cố gắng lần mò về nhà thờ để tâm sự với Chúa và xin Người tha tội cho những tâm hồn mù quáng. Ngày hôm sau, những người đã hành hạ thánh nhân hôm trước đến nhà thờ để xem ngài còn sống hay đã chết. Phẫn nộ viø thấy thánh nhân hãy còn sống và đang cầu nguyện, họ liền trói thánh nhân rồi kéo lê ngài qua các phố xá và hành hạ dã man. Không nản chí sờn lòng, thánh Abraham vẫn một niềm trông cậy vào sức mạnh Thiên Chúa, Đấng sẽ thắng những tâm hồn chai đá như đã chiến thắng Phaolô trên đường Đamasô. Suốt ba năm trường, mặc dầu phải bách hại và nguyền rủa, thánh nhân vẫn cư xử với họ như một người cha và luôn luôn cầu nguyện cho họ.
Đời sống khắc khổ và cầu nguyện liên lỉ của thánh nhân đã thấu tới Chúa. Dần dần với nhẫn nại và từ tâm, ngài đã chinh phục được đám dân dữ tợn ấy. Họ lần lượt đến với ngài xin nhập giáo. Thánh Abraham vui mừng tạ ơn Chúa. Ngài rửa tội cho 100 người và còn dậy giáo lý cho họ một năm.
Dẫu sao đời sống của thánh nhân vẫn là bài giảng hùng hồn hơn cả, ngài sống đơn sơ và đầy bác ái. Ngài thương và làm phúc cho hết mọi người, kể cả những người đã nguyền rủa, phản bội và hành hạ thánh nhân. Ngài cư xử với mọi người như một người cha. Ngoài gương bác ái siêu vời và lòng nhiệt thành với đoàn chiên, thánh Abraham còn sống một đời khắc khổ, luôn quên mình để Chúa được sáng danh. Ngài thường ăn chay đánh tội, mặc áo nhặm, và đọc kinh cầu nguyện lâu giờ.
Chứng kiến đời sống khắc khổ, chí nhiệt thành, tấm gương bác ái của ngài, mọi người đều đem lòng kính phục và bắt chước. Sau một năm tận tụy hướng dẫn đoàn tân tòng, thánh nhân thấy đoàn chiên Chúa giao cho mình đã trưởng thành. Ngài xin Đức Giám mục cho mình trở lại ẩn tu chốn rừng hoang. Phải chăng phong cảnh thiên nhiên vẫn là nguồn cảm xúc cho tâm hồn trong sạch của con người tận hiến.
Thánh nhân xây một ngôi nhà nhỏ giữa cảnh núi rừng hoang vu và ở đó, ít khi ra ngoài. Giữa cảnh tịch liêu, thánh nhân chỉ còn lo việc đọc kinh cầu nguyện. Nhưng hình như Thiên Chúa còn muốn cho triều thiên ẩn tu của thánh nhân sáng rực hơn, nên còn để ngài phải tranh đấu với những cơn giông tố phũ phàng. Ma quỷ thường hiện hình đến dọa nạt ngài, có lần chúng đe sẽ thiêu huỷ hay lật đổ mái nhà của thánh nhân. Một đêm chúng hiện đến dưới hình một người sáng láng ca tụng nhân đức siêu vời của thánh nhân, nhưng biết đó là mưu kế của ma quỷ, thánh nhân sấp mặt xuống đất cầu nguyện rồi bắt chúng phải tẩu thoát ngay.
Một ngày kia, người ta dẫn đến cho ngài một đứa cháu gái tên là Maria, mồ côi cha từ khi lên bảy. Trông thấy đứa bé bơ vơ không ai dưỡng dục, thánh Abraham cho nó ở một ngôi nhà sát ngay nhà của ngài để tiện việc dậy dỗ và huấn luyện đường nhân đức. Thánh nhân làm một cửa sổ trông sang nhà của Maria. Dòng dã 33 năm sống bên cạnh bác, Maria dần dần trở nên một thiếu nữ hiền dịu và nhân đức. Nhưng sự đời nhiều nỗi éo le, một thanh niên thường đi lại thăm viếng cha Abraham, đã để ý đến "bông hoa rừng" kia. Rồi một ngày Maria đã bỏ nhà ra đi theo tiếng gọi của người yêu và sống đời trụy lạc giang hồ nay đây mai đó.
Thánh Abraham ngày đêm cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn Maria trở về con đường trong sạch. Sau hai năm ăn chay cầu nguyện, thánh nhân đã biết đích xác chỗ cháu đang sống đời tội lỗi. Nhưng làm thế nào để khuyên nhủ Maria trở lại ? Đó là câu hỏi thánh nhân luôn xin Chúa giải đáp. Một ngày kia cha Abraham cải trang, mặc bộ quân phục; mang theo nhiều tiền rồi lên ngựa đi thẳng tới nơi cháu ở. Cha đến gặp người chủ "lầu xanh" xin cho gặp Maria. Trong một bữa ăn, cha dẫn cô vào phòng kín. Bấy giờ ngài mới nói cho Maria biết mình là ai. Cô yên lặng và thẫn thờ, mặt cắm gằm xuống đất. Những giọt lệ hối hận bắt đầu lăn trên gò má. Thánh nhân nói: "Cháu ôi! Tại sao cháu không trả lời ? Cháu không biết rằng vì thương cháu mà bác phải vượt đường xa tới đây? Mặc dầu tuổi tác già yếu, bác vẫn không quản ngại, cốt sao cứu được cháu. Cháu đừng thất vọng, với Máu Thánh Chúa Giêsu, Người sẽ chữa lành mọi vết thương. Trước mặt Chúa Giêsu bác sẽ chịu tội thay cho cháu, nếu cháu vui lòng trở lại sống đời tịch liêu như xưa ". Sau đó hai bác cháu lên đường trở về sống với cảnh cô tịch giữa rừng hoang. Maria bắt đầu đời sống mới.
Sau 50 năm mai danh ẩn tiếng sống đời trầm mặc giữa cảnh thiên nhiên, cha Abraham đã thành bông hoa xinh tươi trước mặt Chúa. Ngày 16-3 năm 400, Chúa đã chính thức ngắt bông hoa trong trắng này về chầu Chúa. Nghe tin thánh Abraham qua đời, mọi người lân cận trong vùng thi nhau chạy đến lấy quần áo và vật dụng của thánh nhân về kính tại tư gia. Xác ngài được mai táng rất trọng thể.
Thánh Abraham đã khuất bóng, nhưng đức bác ái siêu vời đối với mọi người, và tinh thần truyền giáo của ngài vẫn là bài học linh động lưu truyền qua muôn thế hệ.
Cuộc Săn Thỏ
Ðức
hồng Y Carlo Martini, nguyên viện trưởng trường Kinh Thánh tại Roma và
hiện là tổng giám mục Milano bên Italia, đã ghi lại trong quyển chú giải
về Phúc Âm Thánh Gioan, câu chuyện sau đây:
Vào
thế kỷ thứ ba, trong Giáo hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ cuộc
sống tu trì... Ðể giải thích cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã đưa
ra hình ảnh của một đàn chó đi săn thỏ. Một chú chó trong đàn đã bất
chợt nhận ra một con thỏ. Thế là chú nhanh nhẩu rời đàn chó và vừa chạy
theo con thỏ vừa sủa inh ỏi. Không mấy chốc, mấy chú chó khác cũng rời
hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả đàn chó bỗng chạy ùa theo. Tất cả
mọi con chó đều chạy, nhưng kì thực chỉ có một con chó là đã phát hiện
ra con thỏ.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Vị
tu sĩ đãđưa ra kết luận như sau: "Ðã có rất nhiều tu sĩ đi theo Chúa,
nhưng kỳ thực chỉ có một hoặc hai vị là đã thực sự thấy Chúa và hiểu
được họ đang đeo đuổi điều gì. Số khác chạy theo vì đám đông hoặc vì họ
nghĩ rằng họ đang làm được một điều tốt. Nhưng kỳ thực họ chưa bao giờ
thấy Chúa. Cho nên khi gặp khó khăn thử thách, họ bắt đầu chán nản bỏ
cuộc".
Cuộc
sống của người Kitô chúng ta có lẽ cũng sẽ ví được với một cuộc săn
thỏ... Ở khởi đầu, ai trong chúng ta cũng hăm hở ra đi, ai trong chúng
ta cũng đều làm rất nhiều cam kết, nhưng một lúc nào đó, khi không còn
thấy gì đến trước mắt nữa, chúng ta bỏ cuộc buông xuôi.... Ða số trong
chúng ta hành động theo sự thúc đẩy của đám đông mà không cần tìm hiểu
lý do của việc làm chúng ta. Người ta lập gia đình mà không hiểu đâu là
cam kết của đời sống hôn nhân. Người ta gia nhập đoàn thể này, đoàn thể
nọ, chúng ta cũng hăng hái tham gia mà không cân nhắc kỹ lưỡng các lý do
tại sao chúng ta tham dự. Và biết đâu, người ta đi nhà thờ, chúng ta
cũng đi nhà thờ mà không bao giờ tự hỏi tại sao chúng ta đi nhà thờ.
Người ta đi xưng tội rước lễ, chúng ta cũng đi xưng tội rước lễ mà có lẽ
chưa bao giờ đặt ra câu hỏi nghiêm chỉnh tại sao chúng ta làm như
thế... Dĩ nhiên, Ðức Tin của chúng ta cần phải được nâng đỡ từ gia đình,
xã hội, bởi người khác. Nhưng chúng ta không thể quên được rằng trước
hết Ðức Tin là một cuộc gặp gỡ cá vị giữa mỗi người và Thiên Chúa, Ðức
tin là một cuộc hành trình trong đó mỗi con người phải tự thấy con đường
mình đang đi.... Chúng ta không thể sống đạo, giữ đạo vì người khác.
Người Kitô có một đồng phục chung là Ðức Ái, nhưng cuộc sống của mỗi
người không phải vì thế mà được đúc sẵn theo một khuôn mẫu, theo những
công thức có sẵn, theo những lôi cuốn của đám đông.
Trong
cuộc hành trình Ðức Tin, chúng ta cùng đồng hành với người khác, nhưng
mỗi người cần phải thấy rõ địa điểm mình đang đi tới. Có thấy rõ như
thế, mỗi khi gặp mệt mỏi, chông gai thử thách, chúng ta mới có thể kiên
vững tiếp tục tiến bước.