Thứ Tư, 7 tháng 6, 2017

5 PHÚT LỜI CHÚA NGÀY 7/6/2017

Filled under:


CÕI PHÚC THẬT

“Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” (Mc 18,25)

Suy niệm: Khi nói đến chuyện đời sau, người ta thường quan niệm “dương sao, âm vậy”: đời này có nhà cửa xe cộ, có ăn uống, dựng vợ gả chồng thì đời sau cũng y như vậy. Nếu đã như thế thì hẳn chẳng cần đến đời sau nữa; nhất nữa là nếu ở đời sau lại xảy ra những cảnh “tréo ngoe” như câu chuyện một chị lần lượt cưới cả bảy anh em, sang đời sau chẳng biết là vợ của người nào. Đó là chiến thuật mà những người phái Xa-đốc dùng để phủ nhận sự sống lại và cuộc sống đời sau: đặt ra những vấn nạn không có trên thực tế và coi cuộc sống đời sau dưới lăng kính của cuộc sống đời này. Sự sống đời đời là một thực tại có thật, là hạnh phúc vô biên so với cuộc đời tạm này. Chúa Giê-su mô tả đó là cuộc sống “như các thiên thần trên trời;” thánh Phao-lô thì nói “gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt” (1Cr 15,42-43).

Mời Bạn đến với Chúa Ki-tô phục sinh và chiêm ngắm những dấu đinh nơi thân xác vinh quang của Ngài để xác tín niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời sau, cùng cảm nghiệm được niềm hạnh phúc khi được sống kết hợp với Ngài. Có Chúa Ki-tô phục sinh, hạnh phúc thiên đàng đã bắt đầu thành hiện thực cho bạn ngay ở trần gian này.

Sống Lời Chúa: Siêng năng kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể để cảm nghiệm được hạnh phúc thiên đàng ngay từ bây giờ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là niềm hạnh phúc đích thực của con. Xin cho con biết mang trái tim yêu thương của Chúa để con cũng đem hạnh phúc đến cho anh chị em con. Amen.


Tôi Tớ Thiên Chúa Giuse Perez
(1890-1928)
Máu các vị tử đạo là hạt giống của Giáo Hội," lời của Tertullian trong thế kỷ thứ ba đã được thể hiện nơi Cha Giuse Perez.
Cha Giuse sinh ở Coroneo, Mễ Tây Cơ, và gia nhập dòng Phanxicô khi 17 tuổi. Vì cuộc nội chiến ở Mễ thời bấy giờ, ngài buộc phải học triết thần ở California.
Sau khi được thụ phong linh mục ở Santa Barbara, ngài trở về Mễ Tây Cơ và phục vụ tại Jerecuaro từ năm 1922 trở đi. Vì sự bách hại dưới thời tổng thống Plutarco Calles (1924-28), Cha Giuse phải ngụy trang dưới nhiều hình thức khi đi thăm người Công Giáo. Vào năm 1927, tài sản của Giáo Hội bị quốc hữu hóa, các trường Công Giáo phải đóng cửa, và các linh mục, nữ tu ngoại quốc bị trục xuất.
Một ngày kia Cha Giuse và vài người bị bắt sau khi cử hành Thánh Lễ một cách lén lút. Cha Giuse đã bị quân lính đâm chết vào ngày 2 tháng Sáu 1928.
Về sau, thi hài Cha Giuse được cung nghinh về Salvatierra để chôn cất giữa tiếng hô vang dậy, "Vạn tuế Vua Kitô!"

Lời Bàn
Giáo Hội Công Giáo ở Mễ Tây Cơ bây giờ thì tự do hơn thời thập niên 1920. Ngày nay, đạo Công Giáo đang phát triển mạnh ở Mễ, một phần cũng nhờ sự ấp ủ của các vị tử đạo như Cha Giuse.


Bằng Lòng Với Cuộc Sống

Sau một thời gian cần cù và chắt chiu, một người đàn ông nọ đã trở thành người giàu có nhất trong ngôi làng nhỏ bé của mình.
Từ lúc mua đươc một con lừa, anh ta mới có ý nghĩ làm một chuyến đi xa cho biết đó biết đây. Anh đến một ngôi làng khác lớn hơn ngôi làng của anh. Một ngôi nhà thật đẹp và sang trọng đập vào đôi mắt của anh. Sau khi dò hỏi, anh biết được đó là ngôi nhà của người giàu có nhất trong làng.
Anh bèn trở về ngôi làng nhỏ bé của mình và quyết trí làm ăn, dành dụm để có thể may ra xây được một ngôi nhà đẹp hơn ngôi nhà mà anh vừa trông thấy ở ngôi làng bên cạnh. Không mấy chốc, tiền bạc dư dả, không những anh đã xây được một ngôi nhà sang trọng đẹp đẽ hơn mà còn mua được cả đàn ngựa và xe nữạ
Lần này, anh vượt qua các ngôi làng nhỏ để đến một đô thị lớn. Tại đây, đâu đâu anh cũng thấy những ngôi nhà đẹp và ngôi nhà nào cũng đẹp hơn ngôi nhà của anh. Anh nghĩ bụng: cho dẫu có lao nhọc cả quãng đời còn lại, anh cũng không tài nào có thể xây được một ngôi nhà đẹp như thế.
Anh bèn tiu nghỉu đánh xe quay lại ngôi làng cũ của mình. Nhưng rủi thay, xe gặp tai nạn, anh đành phải bỏ chiếc xe để leo lên lưng ngựa cố gắng chạy về ngôi làng cũ của mình. Nhưng dọc đường, vì mệt mỏi và đói lả, ngựa cũng lăn ra chết. Người đàn ông chỉ còn biết lủi thủi đi bộ về nhà.
Ðêm đến, giữa sa mạc, anh nhìn thấy một ánh lửa bập bùng từ xa. Anh nấn ná tìm đến và khám phá ra túp lều của một vị ẩn sĩ. Vào trong túp lều, người đàn ông mới nhận ra rằng có lẽ trong đời anh, chưa bao giờ anh thấy có cảnh nghèo nàn cùng cực hơn.
Anh ái ngại nhìn nhà tu hành rồi thắc mắc: "Thưa ông, làm sao ông có thể sống được trong cảnh cùng cực như thế này?".
Nhà ẩn sĩ mỉm cười đáp: "Tôi bằng lòng với cuộc sống... Thế còn ông, xem chừng như ông không được thỏa mãn về cuộc sống của ông cho lắm". Người đàn ông ngạc nhiên hỏi: "Sao ông biết tôi không được thỏa mãn?". Nhà ẩn sĩ nhìn thẳng vào đôi mắt của người đối diện rồi thong thả nói: "Tôi nhìn thấy điều đó trong đôi mắt của ông. Ðôi mắt của ông cứ chạy theo giàu sang, nhưng sự giàu sang không bao giờ đến với ông... Ông hãy nhìn cảnh hoàng hôn. Ông có thấy những ánh sáng yếu ớt đang chiéu rọi trên cánh đồng không? Chúng tưởng mình đang soi sáng cả vũ trụ. Nhưng không mấy chốc, các ngôi sao mọc lên, và những tia sáng hoàng hôn biến mất. Những ánh sao tưởng chúng đang soi sáng cả bầu trời, nhưng khi mặt trăng vừa ló rạng, thì những ánh sao ấy cũng bắt đàu tắt ngụm. Vầng trăng sáng kia tưởng mình soi sáng cả trái đất, nhưng không mấy chốc, mặt trời mọc lên và mọi thứ ánh sáng của đêm đen đều biến mát. Nếu những thứ ánh sáng trên đây đều biết suy nghĩ về những điều ấy, thì có lẽ chúng sẽ tìm thấy nụ cười đã đánh mất".
Nghe câu chuyện ví von của nhà hiền triết, người đàn ông mở miệng mỉm cười, nhưng nỗi buồn vẫn còn thoáng trên gương mặt ông.
Vị ẩn sĩ tiếp tục câu chuyện: "Ông cso biết rằng sánh với tôi, ông là vua không?". Người đàn ông tự nhiên so sánh căn nhà của mình với túp lều của vị ẩn sĩ. Nhưng đó không phải là điều mà vị ẩn sĩ muốn nói đến... Ông cầm chiếc đèn đưa lên cao và mời người đàn ông đến gần bên mình.
Dưới ánh đèn, người đàn ông mới nhận ra rằng vị ẩn sĩ là người không còn ngay cả đôi chân để có thể di chuyển một cách bình thường.
Giữa cuộc hành trình đầy cam go, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Chúa Giêsu muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc tử nạn mà Ngài sắp trải qua, cũng như chính nỗi hoang mang lo sợ của các môn đệ khi Ngài loan báo cái chết... Xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu rọi vào cuộc sống đầy âm u, tăm tối của chúng ta. Xin cho chúng ta biết đón nhận từng đớn đau, thử thách trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và hân hoan, vì tin rằng bên kia tăm tối là ánh sáng Phục Sinh đang chờ đón chúng tạ