Sự kính trọng
Sự
kính trọng không hẳn là đức hạnh, nhưng người ta vẫn nói “chính nó chứa
đầy đức hạnh và chứng tỏ nghĩa vụ đối với mọi người và với chính bản
thân mình”.
Tình cảm này, không có ở những kẻ kiêu ngạo và tầm
thường, luôn hướng về các bậc trưởng thượng hay những kẻ mà mình ái mộ.
Nó được hình thành trên cơ sở lý luận hoặc tấm lòng đối với “tất cả
những người đang nắm giữ guồng máy chính quyền, những thầy giáo, các bậc
sinh thành và đối với cả phụ nữ, trẻ em, người già và kẻ khốn cùng”. Sự
kính trọng thường đi đôi với lòng quí mến nhưng không lẫn lộn với nhau.
Người ta có thể kính trọng mà không thương mến một ông quan tòa. Sự
kính trọng được thể hiện dưới nhiều dạng thức và tùy từng trường hợp,
được gọi là “tôn kính” (kính trọng lẫn lộn với yêu thương, kính trọng
pha lẫn với sợ sệt) “tôn thờ” (kính trọng cộng với sự thờ phượng các bậc
tiền bối). Royer Olard nói với học trò của ông tại Viện Đại học rằng:
“Người ta than phiền về sự kính trọng đã lụi tàn. Không có gì làm cho
tôi phiền lòng và buồn hơn, bởi vì tôi không yêu quí cái gì hơn là sự
tôn kính”. Nếu nó không biến mất thì phải chăng sẽ không xảy ra điều bất
hạnh nào? Người lịch sự luôn luôn tỏ vẻ tôn trọng mọi người và biết
thay đổi cách nhìn tùy theo giá trị của mỗi người. Người độc ác thường
không biết kính trọng người già, phụ nữ và kẻ khốn khó đáng thương.
Ở
nhà thờ hoặc chùa chiền, người ta thường tỏ lòng tôn kính đối với các
vị linh mục và hòa thượng, đại đức trong khi tham dự các buổi lễ cầu
nguyện, cầu kinh. Đàn ông, đàn bà, thanh niên nam nữ tới đây đều gìn giữ
trang phục chỉnh tề, sạch sẽ. Sự kính trọng được bày tỏ ở nhà thờ, nhà
chùa, không chỉ qua trang phục mà còn thể hiện sự nghiêm trang đúng đắn
qua cử chỉ và tâm hồn mình.
Cha mẹ thường chiếm một vị trí rất
quan trọng trong trái tim của đứa trẻ. Họ phải thương yêu, coi trọng
chúng. Tình yêu không xung khắc với lòng kính trọng; ngược lại, nó còn
đòi hỏi sự kính trọng. Đứa con hiếu thảo bao giờ cũng tràn ngập lòng
kính yêu cha mẹ mình. Nó trân trọng nghe lời khuyên nhủ của cha mẹ và
thường quanh quẩn bên họ. Sự tin cậy của chúng đặt hoàn toàn vào kinh
nghiệm ở đời của cha mẹ không nên giữ kín bất cứ điều gì đối với chúng,
ngay cả khi chúng đã trưởng thành, cũng không có gì quan trọng mà không
bàn bạc với con cái.
Những đứa trẻ khác thường thiếu lòng tôn kính
và hay bội bạc. Chìm đắm trong sự mê muội cá nhân, nó thường trả lời
cha mẹ bằng thái độ hỗn láo, khinh bạc, không ngại tranh cãi với cha mẹ
và đôi lúc còn chế giễu những cái mà nó cho là cũ kỹ, lạc hậu. Nó nói
với bạn bè, cha nó là gì? Đó là “cái ông bố già” hay “người mọi giữ
của”, theo định nghĩa thông thường của nó thì “người cha là kẻ giữ két
để chi tiền hàng ngày”. Phải chăng do cha mẹ tạo điều kiện quá khiêm
tốn, nên nó thường tìm cách giao du với những đứa trẻ có nhiều may mắn
hơn. Nó tránh trình bày hoàn cảnh thực của mình để khỏi xấu hổ với bạn
bè về cái mà nó cho là thiếu thốn. Một người ông què quặt không dược
ngồi chung một bàn ăn với cả nhà, phải ẩn mình trong xó nhỏ và ăn với
cái thau gỗ cũ kỹ. Một hôm, con trai và con dâu của ông ta đang ăn, chợt
thấy đứa con trai 5 tuổi đang xếp những tấm ván trên nền nhà, bèn hỏi:
“Con làm cái gì đấy?”. Đứa trẻ đáp: “Một cái máng gỗ đấy. Cái nầy để cha
mẹ dùng khi tới tuổi già!”. Hai kẻ bạc ác nhìn nhau, im lặng, nước mắt
bỗng đầm đìa trên gò má. Và, ngay sau đó, người cha tàn tật được mời
ngồi vào bàn ăn, ở một chỗ tiện nghi nhất.
Người
con phải luôn luôn gìn giữ tấm lòng kính trọng đối với bậc sinh thành.
Hãy quên đi mọi khiếm khuyết để chỉ mang nặng tấm lòng biết ơn.
Alexandre le Grand nói về người thầy của mình là Aristote và người cha
là Philippe rằng: “Nếu người sau truyền lại cho ta chiếc ngai vàng, thì
người trước dạy cho ta trở thành một vị vua sáng suốt”.
Mặt khác,
người thầy không làm tròn chức năng nếu chưa dạy cho học trò biết rằng
tình cảm và sự kính trọng luôn luôn bình đẳng đối với mọi người “linh
mục cũng như quan tòa, đàn bà cũng như thiếu nữ, người già nua cũng như
kẻ nghèo hèn”.
Mọi người phải tuân thủ luật lệ, mà luật lệ thuộc
về những kẻ bỏ phiếu làm nên nó, thi hành và phủ quyết nó. Các vị quan
tòa có nhiệm vụ chính là tuân thủ luật lệ. Con người có thể bị coi
thường nhưng kẻ thừa hành công vụ thì luôn luôn được tôn kính. Một thói
quen đáng ghét khi các vị quan tòa quay lưng lại, tự bằng lòng sự yếu
kém và khó khăn trong nghề nghiệp của mình.
Tất cả mọi người, kể
cả những kẻ có tuổi, có chức quyền, phải biết tôn trọng phụ nữ. Qua phụ
nữ, dường như họ thấy lại mẹ mình, chị em mình và sau đó, người bạn đồng
hành với mình trên đường đời. Tuổi già phải được tôn trọng. Con cái và
lớp trẻ có tâm hồn nhạy cảm thường xem người già trong gia đình là hình
tượng của sự lớn lao và quí giá. Họ kính trọng người già, làm cho người
có tuổi bớt đau đớn, nhọc nhằn, nhằm kéo dài tuổi thọ. “Đó là những
người bạn quí, nếu họ đi luôn, không gì bù đắp được”. Nơi nào, những
người già tóc bạc không được tôn kính thì ở đó, thiếu hẳn những lời
khuyên bảo chí tình, thiếu hẳn sự trợ lực và sự thanh tịnh, hòa dồng.
Không quan tâm tới người già là tự làm nhục mình, cứ nghĩ rằng họ là sự
bất lực, yếu đuối, nạn nhân mà thần chết sẽ tới để đón đi. Nhưng, chính
họ là người chứa đầy những lời khuyên hữu ích cho thế hệ kế thừa. Thời
Hy Lạp, có một đạo luật bắt buộc người còn trẻ phải đứng nghiêm khi
người già đi ngang, phải chào hỏi nhường bước và hoàn toàn im lặng lắng
nghe người lớn tuổi phán bảo. Trong cuộc chiến chống lại nghịch cảnh thì
đức hạnh hóa thành sức mạnh thu lại thắng lợi và làm cho đời sống thêm
hoàn hảo hơn. Tục ngữ La tinh có câu: “Res sacra miser” (sự đau khổ là
vật thiêng liêng), nên chúng ta phải dành sự kính trọng cho những người
đau khổ.
Người ta thường gán cho người khác cái tội “quả báo”, rồi
hất hủi, khinh miệt họ hoặc đối xử một cách lạnh nhạt, thờ ơ. Đó là
thái độ đáng trách. Có biết bao nhiêu người lương thiện trong đám đói
nghèo, chẳng khác gì hạt sạn lăn lóc trên đống vàng. Sự kính trọng còn
được thể hiện với người nghèo khó, vốn chịu nhiều vất vả, khó khăn. Thực
tàn ác khi làm thương tổn tới tâm hồn vốn cũng có những niềm tự hào
thầm kín. Đừng bao giờ xúc phạm họ và cũng đừng cho biết là ta đối xử
nhân hậu với họ. Cũng đừng bao giờ bắt họ phải khúm núm trước sự cư xử
cao ngạo kèm theo thực nhiều của bô’ thí.
Người ta cũng nhận rằng
có nhiều đứa bé quen tôn trọng cả với loài vật thể hiện qua thái độ
không sát sinh (giết chim chóc, sâu bọ), không đối xử thô bạo với súc
vật đang phục vụ mình. Nói tóm lại, cố giữ cho mình là “vị vua tạo lập
xã hội chớ không trở thành một bạo chúa”.
Sự khéo léo, tế nhị
Phép
lịch sự đòi hỏi nhiều tế nhị. Sự tế nhị xét về khía cạnh đạo đức giúp
ta tiên đoán được cái gì làm người khác đau đớn và đối với ai, cần sự
giúp đỡ cấp thiết của mình. Nó chỉ dẫn ra, đầy đủ hơn sách vở, cái gì
người ta nên nói, cái gì thì phải lặng thinh, cái gì nên làm và cái gì
phải tránh. Tính chất của nó là dự báo, thích nghi và chừng mực.
Thực
hết sức thiếu tế nhị khi diễn tả từng chi tiết của một cảnh đẹp cho
người mù nghe; nói ba hoa về niềm say mê, thích thú của những chuyến du
lịch cho một người què quặt; nói về sợi dây trong nhà với một người muốn
treo cổ tự sát. Sự tế nhị là phải hiểu chắc cái gì mình chỉ dẫn, phải
nói rõ điểm hẹn, và hết sức ân cần khi vừa gặp mặt; phải nói bằng những
lời thân ái và biết xoa dịu nỗi đau của những vết thương. Sự tế nhị làm
tăng thêm giá trị của các hành động thông thường nhất, chẳng hạn như
cách chào hỏi, an ủi, tặng quà, chia buồn hay đoán định các ước muốn của
người khác. Nó còn nhắc ta cẩn thận trong lời nói và hành động, biết
vồn vã đón bạn thân, dành cho họ một chỗ lịch sự nhất cũng như giúp họ
tiếp nhận dễ dàng những lỗi lầm đáng tiếc. Malherbe, được mời tới dự
tiệc tại nhà ông Desportes, lại đến trễ, khi mọi người đều yên vị xong
xuôi. Desportes vội vàng đứng dậy đón chào và nói:
– Tôi sắp được nghe một tác phẩm mới của anh đây!
Malherbe trả lời khô khan:
– Cái đó không cần thiết, tôi thích món xúp của bác hơn nhiều!
Desportes
bị tổn thương và kể từ đó, chấm dứt tình bạn với Malherbe. Rõ ràng
Malherbe không tế nhị nhưng anh ta đáng tha thứ, còn Desportes có lẽ lại
thiếu hẳn lòng khoan dung.
Với một chút ít lòng vị tha, chút ít
lịch sự trong kinh nghiệm sống, một thanh niên trai trẻ không bao giờ bị
lúng túng. Anh ta sẽ biết sống và luôn luôn tỏ ra hữu ích hơn những gì
mà anh ta đã biết.
Sự phân minh
Sự
phân minh là vẻ ngoài của đức hạnh, thường hiện ra trên nét mặt. Nhưng
vẻ tự nhiên bên ngoài, tính thường xuyên và sự hòa hợp của các qui luật
ấy không quan trọng mấy, cái chính là ở nội tâm. Nó đòi hỏi sự cao
thượng của tư tưởng và tình cảm phải kết hợp với vẻ giản dị, đẹp mắt của
điệu bộ và lời nói. Sự phân minh vốn là tư chất, không lệ thuộc vào
dòng dõi, vị trí xã hội hay số phận mà nó là phần thưởng của tuổi trẻ có
đức hạnh. “Sự quí phái có tính di truyền, còn sự phân minh là một nghệ
thuật sống; cái kia cùng với ta sinh ra, còn cái nầy thì phải tự tạo
lấy”.
Không có gì thích thú hơn khi được gặp một thanh niên có
tính phân minh. Cứ nhìn cái vẻ sinh động, bước đi thoải mái, giọng nói
rạch ròi của anh ta thì đã thấy quyến luyến lắm rồi. Này, những cậu trai
trẻ, hãy tránh xa những thói tật rẻ rúng, tầm thường trong xã hội. Hãy
trau dồi tính tự tin, phân minh trong điệu bộ cũng như lời nói, nhưng
nhớ tránh các kiểu cách khinh người.
Sự ân cần, niềm nở
Sự
ân cần niềm nở làm vui lòng tình cảm của người khác. Ân cần thái quá,
đôi lúc trở thành sự chiều chuộng, khiến người khác quên đi nghĩa vụ của
họ, như chiều chuộng trẻ em và người giúp việc trong nhà. “Sự ân cần,
niềm nở là một khoản tiền, nhờ đó, người không giàu có luôn luôn trả hết
phần đóng góp của mình”. Có nhiều hoàn cảnh áp dụng, như ở lại với một
người họ hàng bị bịnh, tự nguyện tham gia một công việc hữu ích, vác
giúp người khác một bao hàng, nhặt của rơi trả lại cho người bị mất,
nhường chỗ ngồi an toàn cho phụ nữ ở nơi đông người hay trên xe công
cộng, đưa tay dìu một người già lên xuống xe buýt, đọc hộ thơ cho người
mù, dắt tay người tàn tật băng qua xa lộ…
Ông Martin rất thích các
công việc nầy. Một hôm, gặp một người bị bịnh động kinh nghèo đói trên
sân ga, ông đưa mũ xin tiền và kêu gọi mọi người giúp kẻ bất hạnh. Lần
khác, ông cõng một người thợ say mèm gần chết về tận nhà anh ta.
Đức
tính nầy phát xuất từ lòng quan tâm tới kẻ khác. Một đứa trẻ có tâm hồn
cao thượng, không bao giờ làm mất lòng người khác, kể cả khi nó chịu
mất thú vui của mình. Cho nên, người ta nói rằng, sự ân cần niềm nở là
chị em của tính nhân ái.
Tính xác thực, đúng đắn
Nói
như vua Louis thứ 18 “tính xác thực là phép khẩn trương lịch sự của các
vì vua”. Đó là thói quen làm việc một cách kỹ lưỡng và khẩn trương.
Nhiều
người tỏ ra khó chịu với những nhu cầu của họ. Dĩ nhiên đó là những
người không bao giờ tỏ ra vội vàng. Họ quên rằng cơ hội tốt chỉ mong
manh như một sợi tóc, mà họ phải nắm ngay vì nó chỉ chực biến đi tức
khắc. Họ không chỉ làm phiền lòng những ai mà họ lỗi hẹn mà còn làm
thương tổn tới niềm vui và quyền lợi của họ nữa.
Trong cuốn sách
“Nos filles”, nhà triết học Legouvé có nhắc lại chuyến du lịch đến Thụy
Sĩ với một số bạn thân. Chuyến đi mất vui chỉ vì lỗi nhỏ của người VỢ:
“Cái tính rề rà chậm chạp của bà làm nhiều người đồng hành bực mình. Bạn
của tôi than phiền gay gắt về bà, tôi hết lời che chở nhưng cũng không
quên nhắc khéo bà ta. Sau cùng, lấy cớ có việc phải trở về Paris, tôi bỏ
dở chuyến nghỉ hè.
Sự chuẩn bị kỹ lưỡng và chính xác sẽ đỡ mất
thì giờ về những cái ngoài dự kiến. Một phi công, sau khi quan sát kỹ
không gian rộng lớn qua ống kính, sẽ bay rất an toàn; một người lái ôtô,
nắm chắc các mối đường, sẽ giảm thiểu được tai nạn cho người đi bộ. Một
thanh tra nhà máy, tận tâm với công việc, sẽ bảo đảm cho các qui trình
đều tiến hành thông suốt, trên chiến trường, người chỉ huy nắm chắc tình
hình sẽ đạt được thắng lợi. Ớ trường trung học, các học sinh nội trú
tuân thủ các qui tắc sẽ dễ dàng hòa nhập vào cuộc sống hàng ngày. Nơi
đây, mọi sự ăn ngủ đối với chúng, đều khác hẳn với cảnh sống ở gia đình.
Cha mẹ phải là người đầu tiên thực hiện thời khóa biểu ổn định, bắt
chúng tuân theo. Có như thế, sức khỏe của chúng mới bảo đảm phát triển
được.
Tính xác thực được quan tâm đầy đủ trong công việc hành
chánh và luật lệ, ở nơi sinh hoạt tập thể thường có tính bắt buộc mọi
người phải tuân theo. Ở những khu nội trú, việc thực hiện nó không mấy
khó khăn. Như lời khuyên của ngài Thésèse thì “hãy nghiền ngẫm cho kỹ
khi nghe người ta gõ cửa. Nghĩ thực kỹ trước khi trả lời”. Tôi làm thế
và tôi bảo đảm với anh, đó là nguồn suối của sự hòa bình. Đức tính ấy,
dĩ nhiên, có giá trị lâu dài.
Lòng biết ơn
Lòng biết ơn là một nghĩa vụ thiêng liêng “đó là sự trả nợ thâm tình”.
Trước
hết, món nợ đối với bậc sinh thành, thường hết sức nhạy cảm đối với ai
có lòng tín nghĩa; bởi vì lòng biết ơn làm vui lòng người nhận thì lại
tạo ra niềm sung sướng hơn một nghìn lần cho người được trả.
Món
nợ trước hết mà chúng ta mang nặng trên đời là công ơn cha mẹ – những
người đã cho ta cuộc sống, sự chăm sóc, sự giáo dục. “Không có gì cao
đẹp hơn lòng biết ơn”. Những trái tim đức hạnh thường chứa nhiều linh
tính: “một lời cám ơn chân thực, một từ ngữ yêu thương, một bông hoa
dâng tặng, một sự chăm sóc ân cần”. Tất cả những cái đó là cơ hội để
chứng tỏ lòng biết ơn.
Ngược lại, những kẻ ích kỷ thường coi công
việc ấy là một gánh nặng. Thực khoan khoái biết bao nhiêu nếu có một bài
học nhắc cho họ cái nghĩa vụ ấy! Một hôm, K. – đứa bé lên mười – có ý
định khoe với mẹ về thứ hạng cao mà nó vừa đạt được trong kỳ thi để vòi
tiền: “Tổng cộng là 6 đồng”. Bà mẹ nhìn tấm phiếu, không nói một lời.
Đến bữa điểm tâm, K. nhìn thấy trên đĩa của nó có 6 đồng, đặt cạnh một
tờ giấy ghi sẵn : “K. còn nợ mẹ 10 năm sống hạnh phúc cạnh bà – không gì
cả, 10 năm chăm sóc vì bịnh hoạn – không gì cả, 10 năm có một bà mẹ yêu
quí mình – không gì cả. Tổng kết: không gì cả!
Bài học ấy mang
lại cho nó nhiều quả ngọt và K. bá lấy cổ mẹ reo lên: “Hãy tha thứ sự
khờ dại của con. Bây giờ con hiểu. Không bao giờ con trả hết những gì mà
con còn nợ của mẹ”.
Những người trưởng thành đều biết trân trọng
sâu sắc lòng biết ơn đối với cha mẹ. Pasteur cũng vậy, trong ngày giỗ
cha mẹ, ông khấn nguyện như sau:
– Ôi! Cha mẹ kính yêu ơi! Ôi,
những người yêu thương nhất của con không còn nữa; những người đã sống
rất khiêm tốn trong căn nhà nhỏ này mà suốt đời, con còn nặng nợ. Mẹ rất
dũng cảm của con! Sự nhiệt tình cao cả của mẹ đã truyền lại cho con.
Nếu con luôn luôn đóng góp vào sự vĩ đại của khoa học, sự vĩ đại của Tổ
quốc, đó chính là nhờ con đã chìm đắm trong tình cảm mà mẹ vun bồi trong
lòng con. Và, thưa cha kính yêu. Suốt đời khắc khổ trong
công việc cực nhọc, cha đâã chứng tỏ sức làm việc kiên nhẫn trong thời
gian rất dài. Chính nhờ cha mà ngày nay con nỗ lực không kém. Đời cha
không chỉ làm nên những gì có ích cho cuộc sống mà còn là tấm gương sáng
chói của một người vĩ đại và của công việc lớn lao. Cha mẹ kính yêu!
Xin hãy yên nghỉ bên nhau như ngày nào và để cho con tỏ lòng tôn kính
cha mẹ trong căn nhà nầy.
Sự thận trọng và dè dặt
Tính
thận trọng giúp ta cân nhắc các hành động, uốn nắn lời nói sao cho
thích hợp với mọi nghi lễ. Nếu tinh lực thuộc về thể chất thì nó chính
là tâm hồn. Thiếu thận trọng, người ta không thể thành người lương
thiện. Một người thận trọng không bao giờ lạm dụng, lừa đảo ai, tôn
trọng không chỉ sự bí mật mà còn cả thì giờ và tự do của người khác: “Có
sự thận trọng nghĩa là biết chăm chú lắng nghe mà không bao giờ lặp
lại”. “Người khôn khéo cảm nhận được cái gì còn thích hợp, cái gì nên
tránh xa”. Tính thận trọng rất cần khi xét bất cứ vấn đề gì. “Không ai
giữ im lặng, thờ ơ về những vấn đề xảy ra trong gia đình mình, cho bạn
bè và cho những người quen biết”. Không ai tự nguyện thôi nghe lén ngoài
cửa, không đọc những tờ giấy bỏ bừa bãi trên bàn; không ai giữ kín được
những câu chuyện bạn bè kể lại hoặc tình cờ nghe được.
Bà mẹ của
Mérimée phát hiện ra một bí mật nhỏ của con trai, khi nó còn thơ ấu; thế
mà đứa nhỏ giữ mãi nỗi buồn ấy trong lòng, gần suốt cuộc đời. Cậu khắc
lên chiếc nhẫn đeo tay: “Hãy nhớ mãi mối hoài nghi này”.
Tò mò tìm
hiểu một lá thư gởi tới cho người khác là điều không tha thứ được. Cũng
được coi là thiếu thận trọng khi cứ đoán mò, qua quan sát ngoài bì thư,
nơi nào gởi tới, cô ấy viết cho ai, và tìm mọi cách giải đáp nỗi ngờ
vực ít nhiều điều mà người ta muốn giữ kín. Có người thèm biết tất cả
nên tỏ ra xấc xược qua các câu hỏi thiếu thận trọng về gia đình, về số
phận, về cuộc sống riêng tư. Bị đùn đẩy lần thứ nhất, thứ hai rồi thứ
ba, anh ta vẫn không nản, cho tới khi sự thèm khát tò mò ấy được thỏa
mãn. Cái ý tưởng tò mò kỳ quặc đem lại cho anh ta nhiều chuyện rầy rà và
sinh ra lắm kẻ thù ghét. Sự tò mò, chị em ruột của tính không thận
trọng, không phải là một tính xấu bẩm sinh; đó là lỗi lầm trẻ con, và là
sự dại dột. Nó trở thành thói xấu không tha thứ được.
Lợi dụng cơ
hội của một buổi chiêu đãi thân tình để chui vào gia đình người khác,
vén tấm màn che cái nỗi bất hạnh tiềm tàng, là một hành động đáng khinh
bỉ. Tất cả chuyện riêng của mỗi gia đình đều là bí ẩn thiêng liêng. Tìm
cách mở toang cánh cửa, phơi bày mọi sự thầm kín để thỏa mãn tính tò mò
là một hành động hèn hạ, xấu hổ và thiếu tình người. “Nếu anh vừa nghe
thấy cái gì thì hãy làm như chưa biết, chưa thấy vậy”.
Sự thận trọng bao gồm cả tính dè dặt, kín đáo mà nhờ nó, một sô” thanh niên hiện nay tìm được sự giúp đỡ để tiến thân.
Sự
kín đáo ngoài xã hội: Không ba hoa chích chòe, không loan tin thất
thiệt, không thực hiện những cuộc viếng thăm phiền phức, không tổ chức
những cuộc hẹn hò ám muội, không tụ tập thành bè nhóm, không đánh hơi,
tìm tin tức v.v… và nhất là không gây ra những cuộc tranh cãi, luôn luôn
có vẻ kỳ quặc.
Sự kín đáo trong quan hệ với mọi người: Trong việc
mở rộng giao du, bung rộng ra phạm vi quen biết, người ta có thể bị
nguy hại vì những chuyện buồn phiền, ganh ghét hay tiêu pha vô ích.
Kín
đáo trong việc tiêu pha: Điều hạn chế tính tốt của tuổi trẻ là sự thiếu
tiên liệu: thiếu hạn chế việc tiêu pha tiền bạc. Không dự phòng một số
vốn để khi không còn đủ sức khỏe và điều kiện làm việc nữa. Khi có sự
không may ập xuống thì, than ôi, không ai giúp họ kịp thời.
Tính
dè dặt và thận trọng không chỉ là vẻ đẹp của xã hội mà còn là sự đảm bảo
cho cuộc sống yên vui. Người ta thường đối xử rất nghiêm khắc với những
ai thiếu thận trọng.
Sự Kiên Nhẫn
Sự
kiên nhẫn giúp ta đứng vững trước những lỗi lầm, những lời chê trách,
những cái không kịp thời và những lời phê phán râm ran không làm ta thất
vọng. Theo Évangile, “nhờ sự kiên nhẫn mà ta giữ được tâm hồn mình” hay
“để đạt được sự yên tĩnh trong tâm hồn, khi phải đối đầu với nghịch
cảnh, với sự nguyền rủa, với sự vu khống, gièm pha, người ta cần, trước
hết, là sự kiên nhẫn; thường được gọi là “lòng can đảm thường xuyên”.
Không chờ đợi cơ hội lớn lao, tùy trường hợp, người ta khẳng định được ý
chí của mình, giữ lòng tỉnh táo trước những trở ngại, mâu thuẫn, không
gian thở dù nóng, dù lạnh, dù đau khổ hay bị chống đối, ganh ghét của
người khác. Nói tóm lại, không hề run sợ, không chút buồn phiền. Cái mà
người ta gọi là sự đau khổ, éo le trong đời nầy có khác gì những viên
ngọc quí mà ta nhặt được trong đống sạn, như ngôi sao lấp lánh trên bầu
trời! “Người có bản lĩnh thường thản nhiên trước nghịch cảnh, bất chấp
sự ghen ghét, trù ẻo, họ chỉ tin tưởng ở tài năng và lương tâm của mình.
Những hoạt động thiếu kiên nhẫn phải được dập ngay từ trong trứng nước.
Chẳng hạn, người ta không cho phép một đứa trẻ đập một vật nào đó mà
chính cái nầy sẽ gây thương tích cho nó; không cho chơi nhảy trong tình
trạng yếu kém sức khỏe. Cha mẹ càng không bao giờ nhịn thua những tiếng
khóc điên dại, những cái giẫm chân, giẩy nẩy của con trai, con gái của
mình.
Người công dân lương thiện phải làm những điều tốt: “Không
nên nói hay làm khi ta đang bực mình. Nếu không kiềm hãm được sự bình
tĩnh thì hãy cố ghìm nó xuống. Phải nhớ rằng, sự giận dữ thường đưa tới
các hành động thiếu suy nghĩ, thường nhận lãnh hậu quả đáng tiếc mà
người ta thường nhắc nhở rằng “no mất ngon, giận mất khôn”.
Sự khiêm tốn
Sự
khiêm tốn không chỉ là đức hạnh mà còn là sức mạnh giúp ta lôi cuốn
được bạn bè, tìm được giàu sang, tạo được sản nghiệp và quyền lực trong
xã hội. Người khiêm tốn thường tránh xuất hiện công khai, không kiếm
chác quyền lợi, địa vị hoặc lôi cuốn sự chú ý của mọi người. Anh ta
thích và thường tìm kiếm một cuộc sống kín đáo. Anh ta tự ví mình như
một chùm hoa không lòe loẹt, cố phơi mình khoe màu sắc mà lại lặng lẽ
tỏa ngát hương thơm. Anh ta ít tranh luận, không bày tỏ ý kiến khi được
người ta hỏi tới và bao giờ cũng nói rất dè dặt, rõ ràng. Anh ta ít nói
về mình. Lại thích ẩn mình để ít ai biết và tỏ ra dễ dàng khi nhận một
công việc khiêm nhường. Lời khen tặng làm anh ta lo lắng và sự nịnh nọt
làm anh ta hoảng hốt.
Anh ta tin cậy những người bạn mà mình đã
lựa chọn, dành cho họ phần lớn những gì có giá trị và chỉ giữ công việc
cho mình mà thôi. Anh ta luôn luôn tự nguyện làm vừa lòng bạn bè và
không bao giờ buộc họ chấp nhận quan điểm và sở thích của mình. Với sắc
thái luôn luôn tỉnh táo, nên sự thành công không làm anh ta vênh váo và
thất bại không làm mất can đảm. Sự khiêm tốn giúp mình giấu kín tính
kiêu ngạo và thói khinh miệt – hai thói xấu thường ngự trị trong trái
tim con người. Nhà thơ Bruyère phác họa chân dung của Condé Đại đế:
“Người ta nghe có kẻ tâu lên: tôi đánh đuổi chúng” còn nhà vua, với lòng
khoan dung thì nói: “Chúng ta đánh bại chúng”.
Sau một trận
thắng, Turrenne viết thư cho vợ: “Kẻ thù chạy sang chúng ta. Họ bị thất
bại. Suốt ngày anh phải gánh chịu mỏi mệt, xin chúc em, một buổi tối an
lành và anh đi ngủ đây!”. Thực bao điều giản dị dễ thương xảy ra trong
căn nhà cả hai vị chỉ huy tài ba ấy!
Kẻ kiêu ngạo không bao giờ
khiêm tốn: họ thường nói về mình và về những kẻ đang tán dương họ. Nó
không biết rằng “cái tôi” là một chủ đề buồn chán đối với người đối
thoại. Nó quên rằng “sự kiêu ngạo là anh em của sự ngu muội và dù rằng,
kẻ ngu xuẩn cố thêu thùa, trang trí bộ quần áo của y tới đâu thì đó cũng
chỉ là quần áo của một tên ngu xuẩn. Nó mang căn bệnh hãnh tiến đến lạc
hậu, buồn cười! Giống như nhân vật Arrias “nó đã đọc hết, đã thấy hết,
đó là một người thông thái bẩm sinh và nó là thế đấy! Nó thích nói láo
còn hơn là im lặng hoặc tỏ ra không biết gì hết!”. Trong hơn một phần tư
giờ, nó rút ra được 4 vấn đề, đưa ra 3 giải pháp, để chữa bịnh nan y,
và còn chỉ ra một hình thức chính phủ tốt nhất… Nghe nó nói xong, cứ ngỡ
rằng con người dở dở, ươn ươn ấy đang đóng một vai trò quan trọng. Nó
nói, nó biết hầu hết những nhân vật quan trọng đương thời, phần lớn là
bạn bè của nó, và một số người đã viết cho nó những lá thư đầy lời nịnh
nọt. Nó khao khát những lời khen tặng và nhận những lời nịnh nọt quá
đáng với một vẻ thỏa mãn kỳ cục.
Tự khoe khoang là nhu cầu của nó,
một nhu cầu mà vì vậy nó hy sinh tất cả, kể cả sự thực để đạt được. Hôm
nay nó nói dối, ngày mai tiếp tục nói dối. Tuy nhiên nó là một kẻ khôn
ngoan, theo cái kiểu không bao giờ nói những gì người ta nhìn thấy, và
đó là dấu hiệu của một tư tưởng hẹp hòi của kẻ tự khoe khoang, của kẻ
chỉ nói quá nhiều về mình.
Người đúng đắn chỉ nên tự giới thiệu
mình qua đức hạnh như kiểu của La Bruyère: “Đừng tâng bốc, đừng tự che
giấu, hãy để nó tự phơi bày ra”.
Trích từ “Học Ăn, Học Nói, Học Gói, Học Mở” của một nhóm nhà văn, nhà giáo Pháp, được Hoàng Liên biên soạn lại.
About Metro UI Theme
Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipisicing elit, sed do eiusmod tempor incididunt ut labore et dolore magna aliqua. Ut enim ad minim veniam, quis nostrud exercitation ullamco laboris nisi ut aliquip ex ea commodo consequat. Duis aute irure dolor in reprehenderit...