Tin Mừng Chúa Giê-su Kitô theo Thánh Gioan (Ga 10: 31-42)
Khi ấy, người Do Thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: “Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta!”. Người Do Thái trả lời: “Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn; bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đáp lại: Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu nầy: “Ta đã nói: các ngươi là thần”. Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể hủy diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Đấng đã được Chúa Cha thánh hóa và sai đến trong trần gian rằng: “Ông nói lộng ngôn”. vì Ta đã nói: “Ta là Con Thiên Chúa. Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, thì hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng : Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha”. Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Gio-đan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: “Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả”. Và có nhiều kẻ tin Người.
SUY NIỆM 1
Mặc dầu con người được dựng nên từ bụi đất, nhưng Thiên Chúa đã đặt để trong đó Thần Khí của Ngài, nhờ đó con người sống động và được trở nên giống nhu Thiên Chúa, hay nói cách khác con người đã được thần hoá để được gọi là con Thiên Chúa.
Nhưng khổ nỗi, ngày qua ngày con người cư bị cám dỗ khước từ thần tính của mình để chọn cho mình lối sống vô thần, có nghĩa chỉ có vật chất mới là cùng đích để con người tìm kiếm, Và cứ thế, con người càng ngày càng xa rời Thiên Chúa. Đức Thánh cha Phanxicô trong sư điệp Mùa Chay 2017 đã nói: người thời đại hôm nay giống như ông nhà giàu trong dụ ngôn Người giàu và kẻ nghèo khó Lazarô được ghi lại trong Phúc Âm thánh Luca (x. Lc16, 19-31) Ông nhà giàu rõ là khoe khoang của cải và trong thói phô trương hằng ngày: “ngày ngày yến tiệc linh đình” . Với ông ấy, chúng ta bắt gặp một hình ảnh sống động của đại đa số người thời đại hôm nay: Ham mê tiền bạc, tìm hư danh và tỏ ra kiêu căng. Điều đó khiến ông nhà giàu trở thành kẻ phù phiếm. Nhân phẩm của ông chỉ được thấy qua dáng vẻ hào nhoáng bề ngoài, cho thấy trong ông là cả một đại dương trống rỗng . Quả thật, Vì ham mê giàu sang phú quý nên người thời đại hôm nay chẳng được gì ngoài cái tôi của chính họ. Những điều này cản trở tầm nhìn của họ. Hậu quả của việc quyến luyến tiền của là một sự mù quáng. Họ không nhìn thấy vẻ đẹp cao quí của phẩm giá con người, một vẻ đẹp không được trang điểm bằng tiền bạc, giàu sang, nhưng bằng ân huệ của Thiên Chúa, bằng chính tiònh thương của Ngài, môt tình thương bằng hữu.
Và vì thái độ vô thần như thế, người ta tìm mọi cách đàn áp, kỳ thị, và sách nhiễu các kitô hữu. Theo số liệu thống kê của Quỹ Hỗ Trợ Giáo Hội Khi Cần (Aid to the Church in Need), từ tháng 6-2014 đến tháng 6-2016, có khoảng 334 triệu Kitô hữu bị bách hại và bị phân biệt đối xử tôn giáo. Đứng trước thực trạng đó ĐTC Phanxicô đã liên tục lên tiếng tố cáo cảnh các kitô hữu bị bách hại vì đức tin. Ngài tỏ tình liên đới với họ, và kêu mời mọi người cầu nguyện và trợ giúp các anh chị em kitô bị bách hại. ĐTC lập đi lập lại rằng ngày nay, trong thế kỷ XXI tân tiến này, có nhiều kitô hữu bị thù ghét và bách hại vì đức tin hơn là trong các thế kỷ đầu của lịch sử Kitô giáo, dưới thời các hoàng đế Roma. Khi chối bỏ đặc tính thần linh của mình, con người trở thành những con người vô cảm, và nhẫn tâm.
Lạy Chúa, Chúng con xin cảm tạ Chúa vì chúng mcon được Chúa cho làm người và được trở thành người Kitô hữu. Bởi vì qua sự hiện hữu này, chúng con nhận ra tình thương vô bờ của Chúa đã dàng để cho chúng con. Một thụ tạo thấp hền nhưng được Chúa nâng lên hàng thần thánh. Xin cho chúng con sống xứng đáng với phẩm giá mà chúng con được trao ban. Amen
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
SUY NIỆM 2
- Người Do Thái không tin.
Khi
cầu nguyện với Lời Chúa trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, điểm
thứ nhất chúng ta cần chú ý, đó là sự kiện người Do thái không tin Đức
Giê-su đến từ Thiên Chúa, là con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Thực vậy,
họ nói với Đức Giê-su:
Ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.
Vậy,
tại sao người Do thái không tin Đức Giê-su đến từ Thiên Chúa, là con
Thiên Chúa và là Thiên Chúa? Câu trả lời có ngay trong lời nói của họ:
bởi vì họ chỉ nhìn thấy trước mắt họ, Đức Giê-su một người phàm mà thôi,
nghĩa là một người cụ thể mà họ đang đối thoại, một người như bao người
khác, giới hạn trong không gian và thời gian. Hơn nữa, họ không chỉ
thấy, mà con biết, biết rõ về Ngài: Tên của Ngài là Giê-su, người làng
Nazareth, con ông Giuse và bà Maria.
Như
khi Ngài về làng quê Nazareth, những người cùng quê với Đức Giê-su nghe
Ngài giảng giải Lời Chúa, lúc đầu họ đã tõ ra rất thán phục, như thánh
Luca kể lại : « Mọi người đều tán thánh và thán phục những lời hay ý đẹp
thốt ra từ miệng Người » (v. 22). Nhưng ngay sau đó, họ nêu vấn nạn,
khởi đi từ những gì họ thấy và biết về Đức Giê-su : « Ông này không phải
là con ông Giuse đó sao ? ». Khi kể lại chuyện này, Tin Mừng theo thánh
Mác-cô nói chi tiết hơn : « Ông ta không phải là người thợ mộc, con bà
Maria, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xét, Giu-đa và Simon sao ?
Chị em của ông phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ? » (Mc 6, 3).
Như
khi Ngài nói mình là “Bánh Hằng Sống” (x. Ga 6), người Do thái xầm xì,
bởi vì họ biết rõ Đức Giê-su, Ngài là con ông Giuse và bà Maria, và biết
rõ cha mẹ của Ngài; trong khi đó, họ lại vừa nghe Đức Giê-su nói: “Tôi
là bánh từ trời xuống”! Đây cũng chính là lời xầm xì của người thời đại
chúng ta, và cũng chính chúng ta nữa, ít nhất là ngấm ngầm. Ngày nay,
qua các phương pháp nghiên cứu sử học, người ta biết nhiều hơn và khách
quan hơn về “nhân vật lịch sử” Giêsu Nazareth, về tôn giáo của dân tộc
Ngài, về bối cảnh văn hóa, xã hội và chính trị thời đại của Ngài. Người
ta thán phục về nhân cách độc nhất vô nhị của Ngài. Tuy nhiên, như người
Do thái xưa, người ta không thể chấp nhận niềm tin rằng Ngài là Con
Thiên Chúa, là “bánh từ trời xuống”.
Tuy
nhiên, dưới cái nhìn của đức tin, chúng ta được mời gọi nhận ra tính
chân thực của mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, như thánh sử Gioan tuyên
xưng: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga 1, 14), đến độ xét theo vẻ bề
ngoài, người ta không còn nhận ra nguồn gốc và bản tính thần linh của
Người. Như thế, thân phận con người trở nên có ý nghĩa, có hướng đi và
có niềm hi vọng, nghĩa là trở nên con đường dẫn đến Nguồn Sự Sống, là
chính Thiên Chúa, vì được Con Thiên Chúa đảm nhận, đảm nhận thực sự
trong mầu nhiệm nhập thể và mầu nhiệm Vượt Qua.
Người
Do Thái thấy Ngài như thế, và biết rõ về Ngài như thế, còn sự kiện Ngài
đến từ Thiên Chúa, là con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, thì họ “không
thấy gì cả”, vì thế họ không chịu tin. Cũng thế, trong những lúc khác,
người Do thái dù đã thấy bao dấu lạ Ngài làm, bao việc tốt đẹp Ngài thực
hiện, nhưng vẫn không chịu tin, vì đối với họ bao nhiêu đó dấu lạ và
những điều tốt đẹp vẫn chưa đủ. Nhưng chúng ta thử suy nghĩ xem, bao
nhiêu là đủ? Nếu đó là lòng ham muốn thấy và biết? Vì thế, họ đòi Ngài
làm những dấu lạ từ trời; và khi Ngài chịu đóng đinh trên Thập Giá, họ
vẫn đòi dấu lạ: “Xuống khỏi thập giá đi, để chúng ta thấy, chúng ta
tin”.
Như thế, người Do thái không
tin, vì họ đòi thấy cho bằng được căn tính thần linh của Ngài, đòi thấy
Ngài “từ trời xuống thế”. Họ muốn thấy điều không thể thấy, nhưng chỉ có
thể tin mà thôi. Và chúng ta cũng sẽ không tin như người Do thái, nếu
chúng ta đòi thấy nguồn gốc thần linh của Đức Ki-tô, đòi thấy Đức Ki-tô
phục sinh, đòi thấy điều chúng ta tin và tuyên xưng trong kinh Tin Kính:
Đức
Giêsu là Đấng Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn
đời, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, […]. Vì
loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế.
Nhưng
có đúng là, khi thấy dấu lạ rồi người ta sẽ tin không? Kinh nghiệm cho
thấy, không hẳn như vậy: dấu lạ mời gọi tin, chứ không tất yếu dẫn đến
lòng tin. Và đó chính là kinh nghiệm của người Do thái trong sa mạc. Họ
nhìn thấy bao dấu lạ, nhất là dấu lạ vượt qua Biển Đỏ khô chân, nhưng
khi gặp thử thách khó khăn, họ kêu trách và không chịu tín thác vào Đức
Chúa (x. Tv 106). Chẳng lẽ Chúa lại phải làm cho họ dấu lạ mỗi ngày. Chỉ
cần một vài dấu lạ, rồi tin và cứ thế mà bước đi trong tín thác chứ.
Giống như, những người cùng thời với Đức Giêsu, chứng kiến bao dấu lạ
Ngài làm, và chính ngôi vị của Ngài là một dấu lạ, thế mà vẫn cứ đòi dấu
lạ từ trời.
Họ cứ nghĩ là thấy thì
tin, đó là ảo tưởng. Bởi vì thấy, thì thấy một lần trong một thời điểm
và nơi chốn nhất định; trong khi tin là tin vào một ngôi vị, tin suốt
đời ở mọi nơi mọi lúc. Tin lúc Chúa ban dấu lạ. Và tin cả lúc Chúa không
ban dấu lạ. Trong cuộc sống, những ngày không có dấu lạ gì mới là
nhiều ; và có những ngày, những giai đoạn đầy đau khổ và thử thách.
Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng, khi tin rồi chúng ta sẽ thấy mọi sự đều
lạ, và nhất là chúng ta có thể nhận ra Chúa trong mọi sự.
- Thấy và tin
Trong
cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng không thể thấy và biết hết về
nhau, nhưng thay vì nghi ngờ hay không tin, chúng ta được mời gọi trao
ban lòng tin. Và chúng ta cần lòng tin của nhau biết bao, để tự sửa đổi,
để lớn lên, để ước ao đáp đền bằng những nỗ lực nhỏ bé mỗi ngày. Nếu
chúng ta đòi thấy hết và biết hết mới tin, thì không bao giờ tin được.
Bởi vì, tin là một quyết định tự do, là một quà tặng, liều mình đặt cuộc
đời mình trong tay một người. Trong tình yêu, người “ghen tương” là
người đòi biết hết, thì mới tin. Nhưng đến một lúc nào đó, người này
phải chấp nhận thực tại là mình không thể biết hết; và thay vì trao ban
lòng tin, người này ghi ngờ, từ đó phá hủy tương quan. Bởi vì, nghi ngờ
là nọc độc gây ra bầu khí chết chóc và bạo lực.
Đối
với Chúa, chúng ta càng không thể thấy và biết hết, nhưng chúng ta được
giáo dục trong gia đình và trong Giáo Hội và chúng ta được Chúa ban ơn
và mời gọi chúng ta quyết định trao ban lòng tin, quyết định liều mình
đặt cuộc đời của chúng ta vào trong tay Chúa, để cho Chúa dẫn dắt chúng
ta bằng Lời của Ngài.
Lời của Đức Giêsu hôm nay giúp người Do Thái xưa kia và chúng ta hôm nay, vượt qua khó khăn này, để chúng ta có thể:
- thấy thiên nhiên nhưng tin Thiên Chúa tạo dựng;
- thấy lịch sử thăng trầm nhưng tin đó là lịch sử thánh, là lịch sử cứu độ, vì Thiên Chúa hiện diện và dẫn dắt theo một hướng đi;
- thấy tội lỗi và sự dữ, nhưng tin kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không thất bại, vì Ngài có thể chuyển hóa điều dữ thành điều tốt;
- thấy đau khổ nhưng tin đó là hành trình đi đến hạnh phúc viễn mãn;
- thấy sự chết, sự chết của Đức Kitô, sự chết của từng người trong chúng ta, nhưng tin đó là ngưỡng cửa bước vào cõi sống.
Ngoài ra, trong bài Tin Mừng, để mời gọi người Do Thái và chúng ta tin, Đức Giêsu còn nói:
Trong Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: “Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh”?
(c. 34)
Đức
Giêsu mời gọi người Do Thái, và mời gọi mỗi người chúng ta, nhận ra
chiều kích thần linh ngay trong thân phận bé nhỏ, giới hạn, tội lỗi của
con người; và đó là cách tốt nhất để tin nơi lời nói, việc làm và nhất
ngôi vị của Đức Giêsu. Thực vậy, chúng ta được mời gọi nhận ra:
- sự sống thật kì diệu, cho dù giới hạn;
- những điều lạ lùng xẩy ra trong cuộc sống, nhất là những chứng từ của tình bạn, tình yêu, lòng mến, của sự hi sinh, đời dâng hiến.
- và nhất là nhận ra lòng khát khao vô biên, cuộc sống viên mãn, khát khao có nhau mãi mãi, khát khao tình yêu vô tận.
Ai
có thể gieo vào thế giới, gieo vào giữa lòng cộng đồng nhân loại, gieo
vào nơi sâu thẳm con người những điều như thế. Không thể là hư vô, không
thể là may rủi, không thể là ảo tưởng, không thể là tuyệt vọng; nhưng
chỉ có thể là Thiên Chúa, Ngài đã gieo vào con tim chúng ta lòng khao
khát Ngài, và để rồi làm cho thỏa mãn. Như sách Huấn Ca nói: “Người đặt
con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại
của Người.” (Hc 17, 8)
Tin như thế
không hề là cả tin hay ngây ngô: Chúng ta có Đức Giêsu Kitô; Ngài là hạt
giống Thiên Chúa gieo vào thế giới và đã đạt tới đích viên mãn, cho dù
con người tìm cách cản trở, sự dữ tìm cách hủy diệt; và Ngài đang lôi
kéo tất cả chúng ta. Tuần Thánh là thời gian quan trọng nhất của năm
Phụng Vụ, ở đó chúng ta tưởng niệm và hiện tại hóa mầu nhiệm Vượt Qua,
và cũng là mầu nhiệm Vượt Qua của tất cả chúng ta. Đó là Việc Làm, là
Công Trình kì diệu Thiên Chúa làm cho loài người chúng ta, và chúng ta
mời gọi tin nơi tình yêu Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô.
- Nghi ngờ và bạo lực
Công
trình của Thiên Chúa là con người tin vào Đấng Ngài sai đến. Tin là cả
một công trình; chính vì thế, công trình của ma quỉ cũng phải là làm cho
con người không tin, nghi ngờ; và không tin vào Thiên Chúa, sẽ tất yếu
tin vào những điều khác, thuộc về ma quỉ và sự chết. Không tin nơi Thiên
Chúa, thì người ta sẽ thuộc về sự chết, làm việc sự chết, bởi vì sự
chết sẽ là mạnh nhất, có khả năng xí xóa tất cả, giải quyết mọi vấn đề,
và nhất là làm cho mọi người “huề cả làng”!
Chúng
ta có thể tự hỏi tại sao người ta lại muốn giết Chúa bằng hình phạt
khủng khiếp nhất: đóng đinh vào Thập Giá. Trước hết đó là năng động của
hành vi không tin: Tôi không tin người này là Con Thiên Chúa, vậy thì
giết nó đi, xem coi nó có thể tự cứu mình, hay Thiên Chúa có cứu nó
không. Như thế, không tin, sẽ tất yếu dẫn đến những hành vi dò xét, tố
cáo và hành động bạo lực, nhằm chứng minh điều mình không tin là đúng;
không tin sự sống, người ta sẽ tất yếu làm việc cho sự chết. Giống như,
hành động hái trái cấm (x. St 3, 1-7) phát xuất từ thái độ nội tâm không
tin vào lời Thiên Chúa:
- “Nó cậy CHÚA, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22, 9)
- “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không,
và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào.
Nếu tên công chính là con Thiên Chúa,
hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù.
Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó,
để biết nó hiền hoà làm sao,
và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào.
Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã,
vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.”
(Kn 2, 17-20)
Xin
Thánh Thần Thiên Chúa cho chúng ta nhận ra những tác hại của lựa chọn
không tin, vốn là nguồn gốc dẫn đến thái độ nghi ngờ chết chóc, đồng
thời thúc đẩy chúng ta lựa chọn tin, tín thác và cảm nếm ngay hôm nay
hoa trái sự sống của lòng tin, như chính Đức Giê-su tuyên bố:
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
(Ga 3, 16)
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc