THẬT LÒNG VỚI CHÚA ĐI!
Giu-đa, kẻ nộp Chúa cũng hỏi: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” Chúa Giê-su trả lời: “Chính anh nói đó!” (Mt 26,25)
Suy niệm: Không ai dám nghĩ Chúa Giê-su bị một trong các tông đồ phản bội, thế mà điều đó đã xảy ra. Giu-đa là kẻ phản bội Chúa. Thì ra, thay vì dùng quyền năng và ơn Chúa ban để phục vụ Chúa, ông đã phản bội Chúa. Ông từng chứng kiến những phép lạ Chúa làm, thấy rõ Chúa trục xuất ma quỷ và cho người mù sáng mắt. Ông được ở cạnh Chúa trong cơn bão, khi Chúa đi trên mặt nước. Ông có mặt trong phép lạ hóa vài tấm bánh và một ít con cá ra nhiều nuôi sống hằng ngàn người ăn no nê mà vẫn còn dư hàng chục thúng bánh vụn. Trước các phép lạ đó, đức tin của các tông đồ và mọi người gia tăng, chỉ trừ Giu-đa. Trong bữa Tiệc Ly, ông được ngồi cạnh Chúa và ông “diễn” quá sâu, quá khéo, khiến các tông đồ vẫn không nhận ra ông là kẻ phản bội. Ông tưởng nói “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” sẽ đánh lừa được Chúa Giê-su như che mắt những người khác, nhưng Chúa biết rõ lòng dạ Giu-đa và đánh thức ông: “Chính anh nói đó!” Đối với Chúa, thực hành những lời Ngài dạy mới có phúc. Nghe lời Chúa dạy mà không thực hành, mình sẽ tự biến thành một kẻ phản bội.
Mời Bạn: Chẳng ai dám nghĩ bạn bội phản Chúa và Hội Thánh, vì bạn chưa bao giờ chối Chúa, chưa lên án Chúa. Nhưng trước mặt Chúa, bạn có thật là người trung thành với Chúa không? Nếu bạn luôn thực hành điều Chúa dạy, bạn đáng tin là người trung thành với Chúa.
Sống Lời Chúa: Trung thành với việc suy niệm lời Chúa và thực hành lời Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con trung thành với Chúa, đừng bao giờ bội phản Chúa. Xin chớ để con lìa xa Chúa.
THÁNH NẾ VANTRUĐÊ, VIỆN TRƯỞNG
(+688)
(+688)
Thánh nữ Vantruđê sinh tại Hainaut trong một gia đình quý phái và đạo hạnh. Ông bà thân sinh thánh nữ đều thuộc hoàng tộc. Em gái thánh nữ đã biết sớm bỏ tất cả danh vọng trần gian và đến gửi mình trong tu viện, sau cũng được Giáo hội tuyên phong lên bậc hiển thánh.
Ngay từ bé Vantruđê đã được hấp thụ một nền giáo dục gia đình rất chu đáo cả về hai phương diện đức dục và trí dục. Vì thế tuy còn ít tuổi, nhưng Vantruđê đã sớm biết hiến thân phụng sự Thiên Chúa. Với thời gian, thân hình Vantruđê triển nở nhưng cô vẫn giữ được vẻ trong sạch và ngoan nguỳ của tuổi thơ. Cô tránh những cuộc khiêu vũ và những buổi hội hè có tính cách trần tục phù phiếm… Trong lúc mọi người mải mê trong những cuộc vui chơi, thì cô một mình ở nhà cầu nguyện.
Tới tuổi kết hôn, Vantruđê vâng lệnh song thân kết duyên với quận công miền Hainaut. Kết quả cuộc kết duyên tươi đẹp đó là bốn người con lần lượt ra đời, nhưng một người con út chết khi mới sinh; ba anh em còn lại đều nên những vị thánh vì được hấp thụ những gương lành thánh và đời sống đạo đức của mẹ. Ba anh em đó là: Thánh Landri Giám mục thành Metz, thánh nữ Alđêtruđê thánh nữ Majđêberta.
Hai ông bà quận công rất hòa thuận và thương yêu nhau, không bao giờ người ta thấy hai ông bà xích mích hay to tiếng với nhau. Sau khi sinh bốn người con, cả hai ông bà đều muốn tìm một đời sống nhiệt thành phụng sự Chúa hơn. Vì thế cả hai người đã thỏa thuận khước từ thú vui hôn nhân và hạnh phúc gia đình, vào dòng cho dễ tu thân luyện đức và thực hành đức ái. Khi các con đã trưởng thành, hai ông bà chia tay để vào dòng tu thích hợp.
Theo lời khuyên bảo của nhiều người khôn ngoan, bà Vantruđê xây cất một toà nhà trên một ngọn đồi để làm tu viện. Nhưng sau vì thấy tu viện đó quá rộng lớn và tráng lệ không hợp với tinh thần khó nghèo của Phúc âm, nên bà lại cho xây cất một nhà khác nhỏ bé và khó khăn hơn nhiều; đồng thời bà cũng cho xây một nhà nguyện nhỏ bé nhưng xinh xắn dâng kính hai thánh tông đồ Phaolô và Phêrô. Bà sống một đời sống rất chay tịnh và khổ hạnh; ngày đêm bà say mê suy ngắm những mầu nhiệm trong đạo và hạnh phúc thiên quốc. Có thể nói lửa tình yêu Thiên Chúa đã luyện lọc lòng bà khỏi mọi dính bén của cải trần tục, nên bà không màng chi đến những thói xa hoa, những của cải trần thế. Bà bán tất cả sản nghiệp còn lại, đem phân phát hết tiền bạc cho những người nghèo khó bần cùng.
Thấy đời sống tu trì của thánh nữ vượt mức trên đường trọn lành, ma quỷ hết sức ghen tương. Chúng tìm nhiều mưu mô xảo quyệt tấn công thánh nữ. Khi thì chúng gợi ra trong trí tưởng tượng của bà những hình ảnh âu yếm của đời sống gia đình. Có khi chúng bày ra trước mắt những cảnh giàu sang, phú quí, những lạc thú và danh vọng trần tục. Có lần chúng lại bày vẽ trong trí tất cả những thiếu thốn khổ cực, cảnh cô độc buồn tẻ, những nghèo túng và trăm ngàn khó khăn khác mà bà sẽ phải trải qua trong đời sống ẩn tu. Tất cả những cám dỗ trên, không hề làm cho bà nao núng ngã lòng.
"Thua keo này ta bày keo khác", đó là câu châm ngôn của quỷ dữ Satan. Chúng đã ra tay cám dỗ ai, chúng sẽ kiên nhẫn cám dỗ tới khi không thể làm gì hơn được nữa mới chịu thoái lui. Một đêm kia khi bà thánh đang say sưa cầu nguyện, bỗng ma quỷ lấy hình người đàn ông hiện ra với bà. Bà biết ngay đó là chước quỷ. Bà bình tĩnh làm dấu thánh giá, và kêu tên cực trọng Chúa, ma quỷ lanh lẹ tẩu thoát, thánh nữ vui vẻ sung sướng tạ ơn Chúa vì cuộc thắng trận vẻ vang ấy. Tuy sống âm thầm trong tu viện, nhưng đời khổ tu và hương thơm nhân đức của ngài lan tràn khắp nơi, khiến nhiều thiếu nữ đến xin thụ huấn; chẳng bao lâu bà Vantruđê đã tụ tập được một số đông nữ tu, và biến nơi đó thành một tu viện chính thức có qui luật riêng.
Với tình thương bao la, thánh nữ tận tâm huấn luyện hết mọi chị em trong nhà. Đáp lại lòng yêu thương ấy, các nữ tu coi nữ thánh như một mẹ hiền. Nữ thánh Alđêgonđa là em họ và là nữ tu viện trưởng Maubêga cũng tới lĩnh nhận những lời chỉ giáo vàng ngọc của thánh nữ. Thánh Alđêgonđa hết lòng tôn kính và coi bà Vantruđê như một bà mẹ. Tu viện Maubêga rộng rãi, quang đãng, ngăn nắp và giầu có hơn tu viện của bà Vantruđê. Vì quá thương bà Vantruđê phải sống ở một nơi hẻo lánh buồn tẻ, nữ tu viện trưởng Maubêga hết lời khuyên bà Vantruđê nên bỏ tu viện tí hon, ẩm thấp, và tồi tệ ấy để dời về tu viện mình cho đỡ cực hơn; nhưng bà Vantruđê một mực chối từ, vì lẽ muốn bắt chước gương khó nghèo của Chúa Giêsu, Người đã sinh trong chuồng bò lừa hôi thối và sống cuộc đời nghèo khổ. Thế nên không lý do gì một tạo vật nhỏ bé và hèn kém như bà lại muốn tìm kiếm một đời sống giầu sang dễ chịu. Đức tính nổi bật của thánh nữ là lòng bác ái, và yêu thương người nghèo khó. Ta có thể nói bà là chứng nhân sống động nhất của lòng thương người. Sau khi đã bán hết của cải để cho người nghèo khó, và xây cất tu viện tí hon của bà, còn lại bao nhiêu tiền của bà đem lo việc chuộc các tù binh và nuôi dưỡng các người già lão tật bệnh.
Để đề cao cuộc sống thánh thiện hiếm có của bà Vantruđê, nhất là về phương diện bác ái, Thiên Chúa đã làm nhiều phép lạ nơi bà. Lần kia một người xấu số vừa bị bêïnh nặng lại vừa bị quỷ ám hành hạ rất dữ dội. Sau khi đã chạy chữa nhiều nơi, mà vẫn "tiền mất tật mang", ông liền xin hai vị nữ tu viện trưởng thánh thiện Vantruđê và Alđêgonđa cầu nguyện cho ông qua khỏi cơn bệnh khốn nạn đó. Sau một hồi lâu hai người hợp ý cầu nguyện cho ông, ma quỷ tự động rút lui, không hành hạ ông nữa, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Ông ta lại một lần nữa đến xin hai bà cầu nguyện; nhưng ý Chúa nhiệm mầu muốn dành đặc biệt ơn chữa bệnh đó cho nữ thánh Vantruđê để tôn vinh người tôi trung thánh thiện của Chúa. Ông tới gặp riêng nữ viện trưởng Vantruđê trước và năn nỉ xin bà cầu nguyện cho mình. Cảm thương tình cảnh đau khổ của bệnh nhân, thánh nữ quỳ cầu nguyêïn hồi lâu rồi đặt tay làm dấu thánh giá trên bêïnh nhân, tức thì người đó được khỏi bệnh. Ông vui vẻ trở về nhà và trên đường về ông không ngớt lời ca tụng Thiên Chúa quyền phép.
Sau bao năm sống chay tịnh và khổ hạnh, thân xác nữ tu viện trưởng Vantruđê đã hao mòn tiều tụy chỉ còn đợi ngày Chúa gọi về lĩnh phần thưởng. Thánh nữ từ trần ngày 09-04-688. Xác ngài được an táng trọng thể tại chính tu viện ngài đã xây cất.
Đời sống thánh nữ Vantruđê đã để lại cho chúng ta bài học rất quý giá là: dù ở bất cứ địa vị và hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể nên thánh được. Nhưng nếu muốn nên trọn lành hơn, thì phải tuân theo lời khuyên của Phúc âm, là bán hết của cải để sống khó khăn, khiêm nhường và khiết tịnh theo gương Chúa. Chúng ta hãy xin Chúa nhờ lời bầu cử của thánh nữ Vantruđê cho chúng ta được theo gương ngài mà khinh chê mọi của trần tục, để có thể sống một đời sống trọn lành hơn trong đức mến Chúa yêu người.
Lạc Hướng
Mỗi năm có đến hàng trăm con cá voi bơi vào bờ biển và bị mắc cạn. Nếu được kéo ra biển, chúng lại tự ý bơi trở vào bờ nữa mà không ai hay biết lý do tại sao.... Hiện tượng này đã xảy ra từ nhiều thế kỷ và bao nhiêu giả thuyết đã được đưa rạ
Mới đây, trong tạp chí New Scientist, một nữ bác sĩ thuộc trường đại học Cambridge bên Anh Quốc đã nghiên cứu trên 3,000 hồ sơ ở bảo tàng viện Anh Quốc và đưa ra kết luận rằng: tất cả các giống vật sống ở đại dương như cá heo, cá voi đều tự ý làm cho mình mắc cạn trên khắp thế giới. Có thể nói đây là một loại tự sát của thú vật.
Nữ bác sĩ nói trên cho rằng cá voi bơi vào bờ vì chúng đã sử dụng địa từ trường của trái đất như một thứ bản đồ. Bà giải thích rằng cá voi không sử dụng sự chỉ hướng rộng rãi trên mặt đất như ta sử dụng đại bàn, nhưng chúng chỉ dùng những sự khác biệt tương đối nhỏ trong từng vùng hoàn toàn địa phương. Chúng bơi vào bờ vì không phải chúng đi tìm bờ biển hay muốn tự sát, nhưng cũng giống như người đọc sai hải đồ, nhắm hướng này nhưng lại ra hướng khác.
Những chú cá voi mắc cạn hằng năm trong bờ chắc chắn không phải là những con thú đã quyết chí đi tìm cái chết. Bản năng sinh tồn, ước muốn sinh tồn có nơi con người cũng như súc vật. Chúng đi tìm sự sống nhưng đã lạc hướng.
Cũng thế, không có người nào tự tử vì chính cái chết cả. Quả cái chết ấy, người ta vẫn còn ước muốn được giải thoát. Do đó, tìm giải thoát cũng là ước muốn được sống.
Tất cả chúng ta ai cũng khao khát sự sống. Thế nhưng, lắm khi chúng ta lầm đường lạc lối. Cũng như người thủy thủ đọc sai hải bàn, cũng như người phi công đọc sai bản đồ, chúng ta đọc sai những bản chỉ dẫn đi tìm sự sống của chúng ta. Những ảo ảnh và phù phiếm của cuộc sống lôi kéo chúng ta đến những bóng mờ của chết chóc mà chúng ta không hay biết. Khi chợt tỉnh, thấy mình mắc cạn như những chú cá voi thì đã quá muộn. Chúa Giêsu chính là Ðường Ði của chúng ta. Chỉ có Ngài mới dẫn đưa chúng ta đến Sự Sống đích thực.