Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

GIA ĐÌNH LÀ KIỆT TÁC CỦA THIÊN CHÚA

Filled under:

Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất, trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, và Thượng Hội Đồng Giám Mục về gia đình vừa kết thúc với đề tài “Ơn gọi và sứ mệnh của gia đình trong Giáo Hội và trong thế giới”. Mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh cũng là mừng Gia Đình Thánh, nơi Người sinh sống.

Gia đình là tác phẩm tuyệt đẹp của Thiên Chúa

Quả thật, Gia đình là điều đẹp đẽ nhất mà Thiên Chúa đã dựng nên. Người dựng nên loài người có nam có nữ, và ban cho họ mọi sự. Người ban cho họ quyền toàn thế giới! Họ chan hòa trong tình yêu của Người. Mọi tình yêu Thiên Chúa, mọi vẻ đẹp Thiên Chúa, mọi sự thật Thiên Chúa có trong Chúa, Chúa đều ban hết cho gia đình. Ađam và Evà sống tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa và với nhau, rất hạnh phúc, không phải đau khổ và không phải chết.

Gia đình tan vỡ do Tội Nguyên Tổ

Nhưng rồi con người tự tách ra khỏi Đấng đã dựng nên họ. Thế là đánh mất tất cả, tình nghĩa vợ chồng phân tán, hết anh em (huynh đệ tương tàn), hết hòa bình, hết tình yêu, cái đẹp và sự thật. Hậu quả là từ đó cho đến nay gia đình luôn ở trong tình trang bị đe dọa do tội lỗi, phá thai, coi thường người già, bất hiếu, sống chung, ly dị.

Thiên Chúa cứu vớt trong tình thương

Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi gia đình. Vì gia đình được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa trong tình yêu. Nếu Thiên Chúa không yêu thương chúng ta thì Ngài không tạo dựng nên chúng ta. Ngài không dựa vào những gì chúng ta làm, hay thành quả chúng ta có được, Ngài chỉ nhờ vào công nghiệp của Con Ngài là Đức Giêsu giáng thế. Ngài yêu thương chúng ta vô bờ bến. Không ai yêu chúng ta bằng Thiên Chúa. Ngài yêu chúng ta hơn cả chúng ta yêu chúng ta. Muốn cứu vớt gia đình nhân loại, Thiên Chúa đã chọn một gia đình để đến cứu vớt! Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thiết lập.

Noi gương Thánh Gia sống Năm Thánh Lòng thương Xót

Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách đối nhân xử thế trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ, kèm theo phần phúc là sống lầu dài (x. Hc 3, 3-7. 14-17a). Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nóHỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.

Gia đình ngày hôm nay rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa và sự thương cảm lẫn nhau trong cách sống trong gia đình nói riêng và gia đình nhân loại cả thể nói chung. Chúng ta thấy ai bị thương một cơ phận nào đó, không phải chỉ một cơ phận mà thôi, nhưng là cả con người bị. Không ai là không bị đau thương về thể lý, tinh thần, tình cảm…dẫn đến hậu quả cũng khác nhau. Tất cả đều chịu ảnh hưởng, và những vết thương đó càng đau khổ khi người thân của chúng ta đau khổ, nhất là những người trong gia đình. Bởi vậy, rất cần sự cảm thông. Nhiều nơi không quan tâm đến tương quan giữa người với người nữa. Nhưng gia đình vẫn là nơi có thể mang lại an ủi, và có thể hàn gắn vết thương.

Có nhiều loại vết thương rất lớn và sâu do thiếu thốn nhu cần cần thiết, thiếu tiền bạc, thiếu giáo dục. Những chính sách không ủng hộ gia đình, kỳ thị tôn giáo, văn hoá, hành hạ trẻ em, bạo động trong gia đình, chiến tranh, xung khắc giữa các chủng tộc, biến đổi khí hậu. Tất cả đều hằn sâu những thương tích.

Đó là những lý do khiến Đức Giêsu Kitô phải thân hành xuống thế để rao giảng, để chữa lành những vết thương, kèm theo nhưng dấu lạ. Người đi vào trong các làng mạc và chữa lành mọi bệnh tật (x. Mt 10, 7-8).

Người không chỉ cứu chúng ta khỏi sự yếu đuối, nhưng Ngài muốn trở nên như chúng ta để cảm nghiệm được những đau khổ, sự thất lạc, vô gia cư, sỉ nhục khi ở trên thánh giá, chết và an táng trong một ngôi mộ không phải của mình. Người mang lấy vào thân những đau khổ của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, Ngài sống lại vẫn còn vết thương.

Gia đình nào trong chúng ta cũng cần được Chúa thương xót, thì chúng ta phải xót thương nhau trong gia đình. Chúa Giêsu Kitô, người mang thương tích và cầu nguyện với Chúa Cha. Khi sống lại, chan tay và hình hài của Ngài vẫn còn những vết sẹo, những dấu ấn.

Nguyện xin Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta trở thành những ngôn sứ loan báo Niềm Vui Phúc Âm về gia đình, về tình yêu gia đình, trở thành những ngôn sứ như môn đệ của Chúa, và xin Chúa ban cho chúng ta ơn được xứng đáng với con tim thanh khiết, không cảm thấy bị vấp phạm vì Tin Mừng.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ


Đức Maria – Nữ Vương Hòa Bình

(Lễ Thánh Mẫu Thiên Chúa – Tết Dương Lịch – Cầu cho Hòa bình Thế giới)

Hòa bình luôn đối lập với chiến tranh. Hòa bình là trạng thái không có chiến tranh, người ta không dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong các mối quan hệ giữa các quốc gia, các dân tộc, các nhóm chính trị xã hội. Trong xã hội có nhiều chính đảng, hòa bình cũng được mô tả bởi mối quan hệ giữa các đảng phái luôn biết tôn trọng lẫn nhau và thực hành theo công lý. Tuy nhiên, hòa bình vẫn thường không liên tục, luôn bị gián đoạn bởi các cuộc chiến tranh – dù nóng hoặc lạnh.

Bác học Albert Einstein (1879-1955) phân tích: “Không thể gìn giữ hòa bình bằng bạo lực, hòa bình chỉ chó thể đạt được bằng sự thông hiểu lẫn nhau”. Văn hào Victor Hugo (1802-1885) xác định: “Hòa bình là đức hạnh của nhân loại, chiến tranh là tội ác của nhân loại”.

Trong bài thánh ca “Nữ Vương Hòa Bình”, cố NS Hải Linh tung hô Đức Mẹ: “Kính mừng Nữ Vương, Nữ Vương Hòa Bình, Nữ Vương Hòa Bình. Đây bao tâm hồn thao thức, dân con Nước Việt nô nức…”. Lời ca tụng thật đẹp và được lồng trong giai điệu êm đềm mà vẫn thánh thót, chậm rãi mà vẫn thấy lòng rộn ràng.

Ngày 1 tháng 1 là ngày rất đặc biệt đối với thế giới, cả đạo và đời, vì đó là ngày khởi đầu năm mới. Với người Âu Tây, đó là ngày Tết; với quốc tế, đó là ngày Hòa bình Thế giới; với người Công giáo, đó là ngày lễ Mẹ Thiên Chúa – và Giáo Hội cũng mời gọi mọi người cùng tha thiết cầu cho thế giới được hưởng nền hòa bình đích thực. Hòa bình luôn cần thiết trong cuộc sống, riêng hoặc chung, mọi nơi, mọi lúc và mọi thời. Chúng ta mới vừa mừng lễ Giáng Sinh để tôn vinh Con Thiên Chúa, liền sau đó lại tiếp tục mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để tôn vinh Đức Maria. Giáo Hội tạo một nối kết tuyệt vời để đề cao Thánh Tình Mẫu Tử.

Không biết Thiên Chúa có “tiền định” hay không mà các ngôn ngữ đều mở miệng gọi Mẹ bằng một phụ âm với âm bật là mẫu tự M. Thật lạ, cách gọi người sinh ra mình là Mẹ hoặc Má (tiếng Việt), Mother (Mom, Mum – tiếng Anh), Mère (Maman – tiếng Pháp), Mutter (Mumie – tiếng Đức), Madre (Mamá – tiếng Tây Ban Nha), Madre (Mamma – tiếng Ý), Moeder (Mummie – tiếng Hà Lan),… Nhưng khi gọi Cha thì các nước không dùng chung âm mở đầu, mỗi nước mỗi khác. Phải chăng đây là “đặc cách” mà Thiên Chúa đã dành cho Đức Mẹ, Mẹ của những người Mẹ, và tất cả những phụ nữ làm Mẹ?

Nói đến mẹ thì luôn liên quan con. Tình Mẫu Tử có gì đó rất kỳ diệu, hầu như chúng ta không thể hiểu hết. Dù người con tật nguyền, không đẹp, thậm chí là hư hỏng, phản bội, nhưng vì “nước mắt luôn chảy xuôi” nên người Mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ và vẫn yêu thương hết lòng. Thậm chí có đứa con phạm pháp và bị án tử, nhưng người mẹ vẫn một mực kêu xin giảm án. Người bàng quan có thể trách người Mẹ là nhu nhược, là sợ sệt, nhưng ai đã làm Mẹ mới khả dĩ hiểu thấu. Thế mới là Tình MẫuTử đích thực – trong đó Tình Phụ Tử đích thực cũng được “hiểu ngầm”. Không thể chỉ kính trọng Tình Mẹ mà “coi nhẹ” Tình Cha, vì người Mẹ khởi đầu cho con về cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; người Cha khởi đầu về ý chí, niềm tin và sức mạnh.

Truyện kể rằng có một loài chim đặc biệt rất thương con đến quên cả bản thân mình. Khi không có mồi cho con ăn, loài chim này lấy chính thịt mình để cho con ăn. Loài vật còn như vậy huống chi con người – loại sinh vật cao cấp nhất. Xin được mở ngoặc: Giữa năm 1974, khi ĐGM Giuse Lê Văn Ấn (GM tiên khởi của giáo phận Xuân Lộc) qua đời, loài chim “lấy thịt mình nuôi con” kia đã đậu trên đỉnh nóc nhà thờ chính tòa Xuân Lộc từ khi ngài qua đời đến lúc an táng xong. Người ta cho đó là “dấu lạ” vì hợp với khẩu hiệu giám mục của ĐGM Ấn là “Hãy Giết Mà Ăn” (*).

Sách Dân số cho biết rằng Đức Chúa đã phán với ông Môsê thế này: “Hãy nói với Aharon và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ítraen, anh chị em hãy nói thế này: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh chị em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em! Chúc như thế là đặt con cái Ítraen dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta sẽ chúc lành cho chúng (Ds 6:22-27). Kinh Thánh luôn rõ ràng và chính xác – từng câu, từng dấu chấm, từng dấu phẩy. Lời Chúa phán có nghĩa là những người làm cha làm mẹ cũng phải thực hiện như vậy – và tất nhiên những “người lớn” có trách nhiệm chăm sóc những “người “nhỏ” cũng phải thực hiện cách tương tự. Cha Mẹ sửa dạy con cái hoặc người trên có sửa dạy người dưới thì phải sửa dạy bằng lòng nhân từ, bằng tình yêu thương, bằng lòng thương xót.

Nói về Tình Mẹ, người ta có thể nhớ ngay đến ca khúc Lòng Mẹ, một ca khúc bất hủ của cố nhạc sĩ Y Vân, viết về chính người Mẹ của ông: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. Lòng mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào. Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng mẹ yêu…”. Giai điệu đơn giản mà có hồn, ca từ đẹp và nhẹ nhàng như chất nữ tính dịu dàng của người Mẹ vậy. Còn thi sĩ Hồ Dzếnh lại có mơ ước khác người:

Kiếp sau xin lại làm người
Để nghe non nước vọng lời mẹ ru

Được làm người là niềm hạnh phúc lớn, được nghe lời ru của Mẹ cũng là một niềm vui sướng. Gà con được núp dưới cánh gà mẹ thì không còn sợ diều hâu. Con ở bên Mẹ thì không chỉ an toàn mà còn hạnh phúc, bình an cả tinh thần và thể lý, vì Mẹ là “lá chắn thần đồng” của con.

Gà mẹ xòe cánh
Để đánh diều hâu
Ngọt ngào tình mẹ
Thương con dạt dào

Một em bé đã hãnh diện minh định: “Mẹ là người tốt nhất”. Em bé này thật may mắn vì em rất hạnh phúc khi có được người Mẹ “số dzách”. Bất kỳ ai sống an toàn dưới “đôi cánh” của Mẹ thì đều được an tâm, được tận hưởng nền hòa bình thực sự.

Tình mẹ yêu thương
Biển trời lai láng
Bên mẹ nép cánh
Con sống an vui

Thế giới luôn xảy ra những biến cố, hầu như hàng ngày, do đó thế giới luôn khao khát nền hòa bình đích thực để mọi người được an tâm vui sống. Thế giới thiếu hòa bình vì người ta còn tranh giành quyền lợi, địa vị, vật chất,... biết bao dạng Tham-Sân-Si khác nữa. Người Kitô giáo thiếu bình an tâm hồn vì còn hướng chiều tội lỗi, vẫn tranh giành quyền lực, coi trọng cái danh lợi. Người ta muốn được phục vụ chứ không muốn phục vụ theo tinh thần Đức Kitô, muốn sáng danh con chứ chưa thực sự muốn sáng danh Thiên Chúa. “Cái tôi” dù đáng ghét (như Pascal diễn tả) nhưng “nó” vẫn trỗi dậy bất kỳ lúc nào khiến cho tính ích kỷ “lớn” hơn tình người, lòng vị tha, luôn muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình, muốn được Thiên Chúa xót thương nhưng lại không muốn thể hiện Lòng Chúa Thương Xót. Hãy nhớ rằng Chúa rất ghét “những người giả hình” (x. Mt 23:1-12).

Thiếu Tình Chúa và vắng Tình Mẹ thì chắc chắn không thể có hòa bình. Muốn tận hưởng hòa bình thì phải có công lý, đồng thời phải cầu nguyện: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết Ơn Cứu Độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Đức Kitô đã từng xác định: Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Thánh Vịnh 67 cho biết thêm: “Thiên Chúa cai trị toàn cầu theo lẽ công minh, Ngài cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này” (Tv 67:5). Ký thác đường đời cho Chúa cũng là tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót. Đó là cách thể hiện đức tin sống động. Còn đời người chỉ là “cát bụi”, chẳng đáng chi cả!

Thế gian ngắn ngủi – nơi sinh ký
Thiên quốc vĩnh hằng – chốn tử quy

Chân nhận như vậy để khả dĩ chấp nhận bản chất yếu đuối của kiếp người. Con Chúa giáng sinh làm người là dấu hiệu “báo động đỏ” của thời cánh chung. Thật vậy, “khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4:4-5). Không chỉ vậy, để chứng thực chúng ta là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng chúng ta mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:6). Vì thế, chúng ta “không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:7). Cách lý giải của Thánh Phaolô rất lô-gích.

Người ta có thể nhẫn tâm từ bỏ chính con ruột của mình, thế mà Thiên Chúa lại nhận nghịch tử làm con yêu. Nghịch tử đó là ai? Là chính mỗi chúng ta chứ chẳng ai xa lạ. Chúa quá “ngược đời”, nhưng đó lại là điều kỳ diệu và tuyệt vời vô cùng! Chúng ta chỉ là những “tử tội khốn kiếp” mà lại được nhận làm con cái. Còn hạnh phúc nào hơn nữa? Đó vừa là điều kỳ diệu vừa là “ẩn số” của tình Cha, nghĩa Mẹ. Cha mẹ chúng ta là phàm nhân mà chúng ta còn chưa hiểu nổi tình thương của họ dành cho chúng ta thì chúng ta chẳng bao giờ hiểu được Lòng Chúa Thương Xót.

Hang đá là cảnh gia đình hạnh phúc, dù đó là cảnh nhà “nghèo nhất thế gian”. Trong “cảnh nghèo” đó có cả Tình Mẹ và Tình Cha. Những người đến thăm “gia đình nghèo” này cũng lại là những người “nghèo rớt mồng tơi”: Các mục đồng. Thánh Luca kể rằng sau khi các mục đồng được thiên sứ báo tin, “họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16). Các mục đồng có phước vì đã vui vẻ ghé thăm “tệ xá” của Thánh Gia. Còn ngày nay, người ta (cả đời và đạo) chỉ thích “thăm viếng” các biệt thự, các villa, các nhà cao cửa rộng, các đại gia, những người “thở ra tiền, cười ra bạc, khạc ra vàng, sàng ra đô-la”. Tất nhiên người ta cũng luôn có nhiều cách biện hộ tinh vi lắm: Vì, bởi, nếu,...

Chúng ta phải học động thái ít nói và e ấp đầy nữ tính của Đức Maria. Tại sao? Vì Đức Mẹ nghe mục đồng kể lại điều đã được nói về Hài Nhi, rồi Đức Mẹ “hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2:17-19). Im lặng là sự khôn ngoan cao siêu. Kinh Thánh tường thuật: “Khi ra về, các mục đồng vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (x. Lc 2:20). Họ nghèo mà hạnh phúc, họ hạnh phúc vì họ được trực tiếp gặp chính Vua Nghèo Giêsu, thế là họ bình an, nghĩa là họ được hưởng nền hòa bình đích thực. Đúng như ca đoàn thiên thần hát vang trong Đêm Giáng Sinh:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người lòng ngay (Lc 2:14)

Chỉ có người lòng ngay mới là người được Chúa thương, chỉ có người thiện tâm mới được tận hưởng nền hòa bình chân chính đúng nghĩa. Người đó là ai? Là người noi gương sống động của Thánh Nhi Giêsu, Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse.

Thôn nữ Maria sinh Con Trẻ, bắt đầu thiên chức làm Thánh Mẫu của Thiên Chúa. Chỉ sau 8 ngày, đến lúc phải làm lễ cắt bì cho Con Trẻ theo luật Do Thái, Hài Nhi được đặt tên là Giêsu, tên mà sứ thần đã đặt cho Em Bé trước khi Em Bé được thụ thai trong lòng Mẹ. Bắt đầu có niềm hạnh phúc làm Mẹ thì cũng là lúc bắt đầu chuỗi ngày gian khổ, lo toan, thậm chí là đẫm nước mắt. Thế nhưng Đức Mẹ vẫn không một lời than thở, chỉ im lặng và hành động, đồng thời luôn trọn niềm tín thác vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhân từ.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn “biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” theo tinh thần của Thánh Phanxicô Assisi, luôn là “khí cụ bình an của Chúa”, biết bảo vệ công lý để có thể kiến tạo hòa bình đích thực, mọi nơi và mọi lúc.

Lạy Thánh Mẫu Maria, Nữ Vương Hòa Bình, xin giúp chúng con biết “nói ít và làm nhiều” như Mẹ, để hàng ngày chúng con có thể vãn hồi hòa bình ngay từ trong gia đình, hội đoàn, giáo xứ, cộng đoàn, xã hội,...

Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Nhi Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa hóa thành nhục thể để cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Ai đó đã làm hai câu thơ độc đáo này: “Cây XUÂN nảy LỘC đầu Sáu sáu, Quả ĐỨC thành NHÂN giữa Bảy tư” – nghĩa là GP Xuân Lộc được thành lập đầu năm 1966, ĐGM Giuse Lê Văn Ấn qua đời giữa năm 1974.