Dẫn nhập
Cũng
như nhiều vấn nạn đạo đức khác, vấn nạn lương tâm thường bị cất vào tủ
trưng bày. Con người chạy trốn không dám đối diện với nó; Con người yêu
thích tự do; Con người dị ứng với những gì là giáo điều. Trong khi đó,
lương tâm chẳng biết gì hơn ngoài việc “phải làm” và “không được làm”.
Vấn đề ở đây không hẳn ở việc lương tâm có thật sự cứng nhắc như người
ta vẫn nghĩ hay không, nhưng chính yếu là điều cần biết thì chẳng ai bận
tâm trong khi điều vô ích thì muôn người ham muốn. Lương tâm đồng hành
với chúng ta như hình với bóng, nhưng thử hỏi mấy ai mất công tìm hiểu,
phản tỉnh và kiên trì dấn thân thao luyện lương tâm. Khởi hứng từ điều
đó, bài viết chọn truyền thống công giáo theo Tôma Aquinô và giáo huấn
của Công Đồng Vaticanô II để làm điểm dừng cho việc khảo cứu về vấn đề
lương tâm, với câu hỏi được nêu ra là: Bản chất và vai trò của lương tâm
trong vấn đề nhận biết và phán đoán của luân lý; liệu rằng những giá
trị đó có thể sống với tôi trong bối cảnh hiện tại hay khôngI. Bản chất của Lương tâm
Suy
tư về lương tâm như tâm điểm sâu kín nhất của con người, mỗi người tự
bản chất đều có giá trị, có phẩm giá trổi vượt toàn thể vũ trụ vật chất,
do đó mỗi người phải được kính trọng ngay từ giây phút đầu hiện hữu.
1. Phẩm giá con người
Theo Thomas Aquinas[1], có một phẩm giá kép rất riêng nơi con người:
–
Một là phẩm giá tự bản chất và là điều được phú bẩm hay ân ban: Con
người là quà tặng của Thiên Chúa: Con người là thành viên của nhân loại
mà Thiên Chúa đã sáng tạo từ lúc khởi đầu khi Người sáng tạo con người
giống hình ảnh Người (Sáng thế 1, 27). Hơn nữa, trong việc sáng tạo con
người, Ngài còn sáng tạo một hữu thể trong bản chất có khả năng lãnh
nhận sự sống thần linh của Ngài. Do đó, mỗi người đều là một con người
có giá trị luân lý, một cá nhân không thể thay thế được. Chính phẩm giá
vốn có này mà khi con người bắt đầu hiện hữu, họ đã là những con người,
mang bản tính người. Con người có khả năng thiên phú là khao khát khám
phá sự thật và khẳng định chính cuộc sống mình bằng chọn lựa tự do để
thích ứng cuộc sống và hành động với sự thật: như bảo vệ sự sống cá
nhân, sống hòa hợp với Đấng Tạo Hóa, với tha nhân.
Mặc
dù khi mới bắt đầu hiện hữu con người vẫn chưa hoàn toàn là những con
người mà chính họ được nhắm tới. Điều này đưa chúng ta xem xét loại thứ
hai của phẩm giá con người cũng nội tại nhưng do đạt được chứ không do
thiên phú.
–
Loại phẩm giá thứ hai là phẩm giá mà con người được kêu gọi đạt đến với
tư cách là những con người có lý trí và tự do, có khả năng quyết định
chính cuộc sống mình bởi những lựa chọn tự do. Đây có thể được xem là
phẩm giá mà con người đem lại cho chính mình bằng chọn lựa tự do để định
hình cuộc sống và hành động của mình cho phù hợp với chân lý. Nói cách
khác, con người hòa nhập vào phẩm giá này bằng việc thực hiện những chọn
lựa luân lý tốt, và những chọn lựa ấy phải được dựa trên những phán
đoán luân lý đúng đắn để đạt được những phẩm giá mà họ được kêu gọi để
đạt đến với tư cách là những con người có lý trí và tự do.
2. Hành vi tự do của con người
Theo
như thánh Thomas Aquinas đặt vấn đề, chỉ qua chọn lựa tự do mà con
người làm chủ mọi hành động của mình và bằng cách này con người được tạo
dựng theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa.[2]
Công Đồng Vaticanô II còn nhấn mạnh rằng: Quyền chọn lựa tự do là một
dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa trong con người.[3]
Hơn nữa, những chọn lựa tự do liên quan đến những hành vi con người có
thể làm. Nhưng những hành vi được bàn đến không đơn giản chỉ là những
biến cố vật lý trong thế giới vật chất xuất hiện rồi lại biến mất, giống
như sự việc mưa rơi hay lá cây đổi màu. Những hành vi theo nguyên tắc
không phải là điều gì đó xảy ra đối với một cá nhân. Đúng hơn, chúng là
những diễn đạt bề ngoài sự chọn lựa của một người, là việc biểu lộ hay
bày tỏ căn tính luân lý của người đó, là bản chất của người đó như là
một con người luân lý. Vì cốt lõi của một hành vi, xét như là hành vi
nhân linh và có tính cá vị là một chọn lựa tự do, tự quyết mà theo nghĩa
hẹp là điều gì đó thuộc tinh thần và tồn tại nơi con người, khẳng định
chính bản chất con người.
Do
đó, chọn lựa tự do trước hết là con người ở trong một tình huống mà họ
bị những khả năng chọn lựa thu hút và không có cách nào khác để loại bỏ
sự xung khắc của những chọn lựa khác nhau hay để giới hạn các khả năng
vào một chọn lựa. Hay nói khác đi, một người có thể làm điều này hay làm
điều kia, nhưng không thể làm cả hai. Thứ đến, con người nhận thức
rằng, việc giải quyết vấn đề và khẳng định khả năng nào nên thực hiện
thì tuỳ thuộc vào họ. Sau cùng, con người ý thức hành động của sự chọn
lựa và ý thức rằng không có gì ép họ phải làm điều đó.
Như
vậy, con người tự do chọn lựa điều họ làm, nhưng họ không tự do làm cho
điều mà họ chọn thực hiện trở thành tốt hay xấu, đúng hay sai. Những
chọn lựa của con người tốt hay xấu trong chừng mực chúng thích hợp với
điều mà Công Đồng Vaticanô II gọi là chuẩn mực cao nhất của đời sống con
người, luật thánh và luật vĩnh cửu của Thiên Chúa; những mệnh lệnh của
luật đó được biết qua trung gian lương tâm. Như vậy, con người buộc phải
hiểu vai trò của lương tâm trong đời sống luân lý và cách thế họ tham
dự vào luật thánh và vĩnh cửu của Thiên Chúa thông qua trung gian lương
tâm.[4]
3. Lương tâm
Để
có một đời sống luân lý thật sự, vấn đề không chỉ là biết ta phải làm
gì, nhưng là làm sao để biết ta phải làm gì. Giải đáp cho câu hỏi này
xuất phát từ lương tâm, là nơi con người đưa ra những quyết định, những
chọn lựa luân lý, phán đoán điều tốt điều xấu. Đó là một khái niệm căn
bản. Thiết tưởng, để đào sâu hơn, cũng nên chăng tìm hiểu ý nghĩa của
hai tiếng “lương tâm”.
Theo
Linh mục Phan Tấn Thành, O.P. cho rằng: “Con người cần phải dựa theo
một tiêu chuẩn để phân biệt điều gì là tốt, điều gì là xấu. Người ta
thường đặt tên cho tiêu chuẩn đó là “lương tâm” [5].
Giám mục Nguyễn Thái Hợp, O.P. không đưa ra một định nghĩa cụ thể về
lương tâm, nhưng khái quát hóa: “Lương tâm đóng vai trò quan trọng trong
đời sống đạo đức của con người”[6].
Đức Hồng Y Newman: “Lương tâm là một luật của tâm trí con người, nhưng
lại vượt quá tâm trí, nó ra lệnh và nói cho con người biết đâu là trách
nhiệm và bổn phận của họ, những gì họ nên sợ và nên hy vọng. Nó là sứ
giả để nói với con người qua tấm màn, trong thế giới của tự nhiên cũng
như trong thế giới ân sủng”[7].
Sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng đã xác định một cách rõ rệt: “Lương
tâm hiện diện trong lòng người và ra lệnh đúng lúc cho con người làm
lành lánh dữ. Lương tâm phán đoán các lựa chọn cụ thể bằng cách tán
thành lựa chọn tốt, tố giác lựa chọn xấu. Lương tâm chứng nhận thế giá
của chân lý bằng cách quy chiếu về Thiên Chúa là sự thiện tối thượng,
Đấng thu hút và ban mệnh lệnh cho con người. Khi nghe theo tiếng lương
tâm, người khôn ngoan có thể cảm nhận được Thiên Chúa đang nói với mình”[8].
Về
bản chất của lương tâm, sách Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế về
mục vụ trong Giáo Hội ngày nay viết: “Con người khám phá ra tận đáy
lương tâm một lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng
vẫn phải tuân theo; và tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con
người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng
nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người: hãy làm điều
này, hãy tránh điều kia. Quả thật con người có lề luật được Chúa khắc
ghi trong tâm hồn. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người
và chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy nữa. Lương tâm là
tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người
chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội
trong thâm tâm họ. Nhờ lương tâm, lề luật được thực hiện trong sự yêu
mến Thiên Chúa, anh em và được biểu lộ cách kỳ diệu”[9].
Vì
thế, lương tâm là nơi sâu thẳm nhất của con người, nhờ đó con người
nhận biết điều lành điều dữ. Đồng thời lương tâm không chỉ giúp cho con
người hành động để chu toàn bổn phận làm người của mình mà còn giúp mỗi
người tuân theo chỉ thị của lương tâm, vì đó là tiếng nói cuối cùng mà
con người có thể nghe được “Lời của Thiên Chúa”. Trung thành với lương
tâm có nghĩa là tìm kiếm chân lý và tìm giải quyết trong chân lý các vấn
đề luân lý.
III. Vai trò của lương tâm trong vấn đề nhận biết và phán đoán của luân lý
Lương
tâm giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống của con người. Lương tâm
hướng dẫn mọi hoạt dộng và phán đoán của con người. Vì thế, để có thể
hành động và đưa ra những phán đoán đúng đắn, vai trò của lý tính và cảm
tính trong việc phân định và chọn lựa của lương tâm có ý nghĩa rất quan
trọng.
1. Vai trò của lý tính và cảm tính trong việc phân định và chọn lựa của lương tâm
Về
khả thể “lý tính”, ý niệm “lương tâm” mà tiếng Latinh gọi là
“conscientia” gồm hai từ “con”, mà nguyên ngữ của nó là “cum” và có
nghĩa “cùng với”; còn từ “scientia” xuất phát từ động từ “scire” và có
nghĩa là biết hay ý thức. Như vậy, “conscientia” có nghĩa là cùng biết,
cùng ý thức, tức một sự hiểu biết hay ý thức toàn diện của chủ thể tri
thức.[1]
Mặt khác, cảm thức chung cũng công nhận lương tâm có thể phân thành
đúng và sai; mà đặc tính đúng và sai lại là các đặc trưng của sự hiểu
biết nên lương tâm có khả năng biết. Do đó, lý do con người có thể phân
định và chon lựa theo lương tâm là vì ý chí của họ luôn hướng về một sự
thiện tối hảo nào đó mà lý trí đã trình bày và phô diễn ra cho họ. Ý chí
tự nó không hiểu gì về sự thiện đó, vì nó không là khả năng nhận biết.
Chính vì nơi con người có được tác dụng hỗ tương giữa lý trí và ý chí mà
con người là một hữu thể có tự do, một tự do đúng nghĩa để phân định và
chọn lựa theo lương tâm.
Đối
lại, khả thể ‘cảm tính’ cũng có các luận chứng hỗ trợ. Nếu lương tâm
thuộc về phần lý tính như đã xét ở trên thì hệ quả nó sẽ là một trạng
thái ổn định (vừa có phần bẩm sinh, vừa có phần thao luyện). Điều này
tất nhiên sẽ sinh ra các mâu thuẫn nội tại. Bonaventure lý luận rằng:
Lương tâm không thể là một trạng thái ổn định vì đôi lúc lương tâm tinh
tuyền và lúc khác nó lại nhơ bẩn. Lương tâm cũng không thể là năng lực
nhận thức, vì nếu như thế thì phạm vi của nó sẽ trải rộng không chỉ ở
hành động mà còn cả việc chiêm niệm, tức là nó sẽ thâu tóm cả những vấn
đề đạo đức cũng như các vấn đề nơi các lĩnh vực khác; và đây là điều
không thể chấp nhận được.[2]
Thêm nữa, lý tính thì hướng tới chân lý còn cảm tính thì hướng tới sự
thiện hảo, mà lương tâm thì lại liên hệ với sự thiện hảo (1Tm 1,5;18-19)
khi nó biểu lộ sự thương xót hay sự ăn năn.
Vì
vậy, sự thiện hảo hay xấu xa không chỉ gắn liền với cảm tính mà còn với
lý tính; Bởi lẽ như một thẩm phán, lương tâm thôi thúc con người hướng
tới điều tốt và tránh điều xấu. Để có thể thể làm được điều này, lương
tâm cần phải được thao luyện thường xuyên.
2. Lương tâm cần phải được thao luyện
Ngày nay, nhiều người có
một khái niệm quá đơn giản về lương tâm. Họ tưởng rằng để có một hành
vi do lương tâm, mỗi người chỉ cần dừng lại xem xét kỹ lưỡng vấn đề và
từ đó tìm giải đáp. Họ nghĩ rằng ai cũng có khả năng bẩm sinh tự nhiên
để hiểu cái gì là tốt và cái gì là xấu, và cũng có sức mạnh để chuyển
hóa sự lượng giá đó thành hành động thích ứng. Thực tế kinh nghiệm cho
thấy con người khi hành động gặp hai nỗi khó khăn lớn:
– Về sự hiểu biết: không dễ dàng xác định cái gì là tốt trong hoàn cảnh cụ thể, ngay cả khi người đó đã rõ các nguyên tắc.
– Về hành động: không phải lúc nào ta cũng có thể bắt tay hành động điều ta đã phán đoán là tốt.
Hành
động theo lương tâm là kết quả cuối cùng của một loạt các hoạt động có
liên hệ đến mọi tài năng (suy nghĩ, phán đoán, ý chí,…) và giả thiết
phải có một sự giáo dục chung về nhân vị. Do đó, lương tâm: Phải được
huấn luyện, trong liên hệ với khả năng định giá và hành động về mặt luân
lý mà con người được nhắm tới; điều đó có nghĩa là ý thức mình sai lầm
khi xét đoán sai giá trị một sự vật. Phải chắc chắn, khi phán đoán một
chọn lựa là thực sự tốt. Phải đúng đắn, liên quan đến những đòi hỏi đích
thật của nhân phẩm con người.
Nhưng
để rèn luyện cho lương tâm trở nên ngay chính và đúng đắn, hầu lương
tâm có thể đưa ra những phán quyết phù hợp với lý trí và luật Giáo Hội,
thì sự rèn luyện hay giáo dục lương tâm nhất thiết cần phải được soi
sáng và hướng dẫn bởi Thần Khí và giáo huấn của Giáo Hội. Đây có thể
đuợc xem là con đường duy nhất giúp con người có được một lương tâm tốt
và ngay lành hầu có thể hướng dẫn mọi tư tưởng, lời nói và hành vị của
mình, ngoài ra không có sự lựa chọn nào khác.
IV. Kết luận
Tóm
lại, lương tâm là một trạng thái nhận thức “ổn định” của lý tính thực
hành nhưng đó không thuần là cái lý của đúng và sai, mà là cái lý của
cảm và nghiệm. Lương tâm vừa là bẩm sinh vừa là đạt được, vì nó không
phải là chuyển động một chiều cứng ngắt mà là chuyển động xoay vòng uyển
chuyển trong từng bối cảnh. Nó ràng buộc con người, nhưng không phải để
siết chặt và bóp nghẹt, mà để con người được bén rễ vào sự thật. Lẽ
thế, chúng ta có quyền hy vọng, có quyền tin tưởng. Lương tâm sẽ không
bao giờ bị tuyệt gốc, thậm chí khi chủ nhân của nó sa đọa tột cùng. Nói
khác đi, dẫu con người có bị tha hóa thế nào chăng nữa, thì vẫn luôn có
đó lương tâm, một sứ giả, một vị linh hướng trung thành.
Hoàng Trọng An, S.J.
Học Viên Triết I
Học Viện Thánh Giuse – Dòng Tên Việt Nam