NGÀY SA-BÁT, LÀM VIỆC LÀNH
Đức Giê-su bảo người bị bại tay: “Anh chỗi dậy, ra giữa đây.” Rồi Người nói với họ: “Ngày Sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi?” (Mc 3,4)
Suy niệm: Để đón nhận và sống sứ điệp Tin Mừng, cần biết nhìn và có một tấm lòng. Khi gọi người bị bại tay ra đứng giữa hội đường, Chúa Giê-su không có ý hạ giá anh, nhưng Ngài kêu gọi chúng ta hãy dám nhìn thẳng vào người anh em đau khổ, bị bỏ rơi, bị lãng quên và lắng nghe lời chất vấn của lương tâm: “Ngày Sa-bát được phép làm điều lành hay điều dữ?” Mệnh lệnh “làm lành lánh dữ” của lương tâm sở dĩ có tính tuyệt đối vô điều kiện bởi vì nó xuất phát từ chính Thiên Chúa. Người ta chỉ chu toàn bổn phận thánh thiêng thờ phượng Chúa khi và chỉ khi “làm điều lành”. Mà “điều lành” không gì khác hơn là phục vụ, chia sẻ cách cụ thể với người anh em đau khổ đang ở giữa cộng đoàn đây.
Mời Bạn: Bạn đang làm những “điều lành” nào trong ngày Chúa Nhật, Ngày Của Chúa? Bạn có bận bịu công việc làm ăn đến nỗi không còn thì giờ cho Chúa, cho gia đình, con cái? Hay bạn cũng ngưng công việc làm thường ngày, những để mê đắm trong bài bạc, nhậu nhẹt say sưa?
Chia sẻ: Ngày Chúa Nhật của bạn thường diễn ra như thế nào? Có thể sắp xếp cách khác để ngày ấy trở thành ngày của mến Chúa yêu người cách đặc biệt hơn không?
Sống Lời Chúa: Gác lại việc làm ăn thường ngày để đi thăm một người trong khu xóm đang cần sự quan tâm chia sẻ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban thêm cho con nhiệt tâm làm việc lành, biết yêu thương phục vụ những anh chị em nghèo khổ, bất hạnh xung quanh con.
THÁNH ĐÊICÔLA SÁNG LẬP TU VIỆN LURA
(+ 625)
Vào cuối thế kỷ VI, tu sĩ Côlôniabanô, người Ái Nhĩ Lan được bề trên
cho phép rời bỏ quê hương, tiến vào lục địa để mở một chiến dịnh truyền
giáo. Cùng nung nấu một lòng nhiệt thành tìm vinh quang Thiên Chúa như
Côlôniabanô, nhiều tu sĩ khác cũng tình nguyện lên đường theo
Côlôniabanộ Đêicôla là một trong số những chí nguyện quân Phúc âm đó.(+ 625)
Tuy cao niên hơn anh em đồng đội, nhưng đức hy sinh và chí nhiệt thành của Đêicôla không hề chịu thua kém. Vẻ mặt của ngài lúc nào cũng bình thản biểu hiệu một tâm hồn an bình thánh thiện. Có một ngày chính Côlôniabanô đã đánh bạo hỏi cho biết tại đâu Đêicôla lúc nào cũng giữ được nét mặt vui tươi trong sáng chứng tỏ tâm hồn ngài không bao giờ bị xao xuyến rối loạn. Đêicôla trả lời cho hay vì không gì có thể cướp mất Chúa khỏi lòng mình được.
Sau nhiều ngày lênh đênh vượt biển, đoàn chiến sĩ Phúc âm đã cập bến và tới cư ngụ ở một miền quê Pháp hẻo lánh, gần dẫy núi Vônsơn (Vonsges). Lối sống hiền hoà và lòng đạo đức của anh em đã dần dần cảm hoá được dân chúng miền đó. Không bao lâu, số người xin nhập dòng mỗi lúc một đông đến nỗi Côlôniabanô lại cùng với Đêicôla và một số thầy khác phải di chuyển tới Luyxơi (Luxeuil) để lập một cộng đồng khác. Từ một cánh rừng hoang vu Luyxơi nay đã biến thành một tu viện danh tiếng nhờ ảnh hưởng của Đêicôla. Mỗi ngày tu viện đã mở rộng cửa để đón những khách thập phương tới hoà mình trong bầu khí trầm lặng và thánh thiện của các tu sĩ. Có những người, lúc đến với cõi lòng nặng trĩu ưu tư vì đời sống quá khứ tội lỗi, nhưng sau đã ra về với tâm hồn thanh thản. Thực ra đối với những người lương thiện, thì chốn tu trì đó là một môi trường thuận tiện cho việc thánh hoá bản thân. Những gương hy sinh đạo đức và cuộc sống trầm lặng của các tu sĩ đối với họ chính là những bài học tu đức hiệu lực. Nhưng đối với những kẻ ham mê tội lỗi, thì sự thánh thiện và những gương sáng đạo đức kia chỉ là một cái gai chướng mắt mà họ sẽ tìm cách khử trừ đi. Có lẽ cũng vì lý do đó mà hoàng hậu Brunêhan (Brunehant) đã xin vua ra lệnh giải tán tu viện Luyxơi, để bà được dễ bề phóng túng. Vì thế một ngày kia, người ta thấy có một võ quan cưỡi ngựa mang lệnh của nhà vua đến giải tán tu viện.
Như chim lìa đàn, các tu sĩ mỗi người một ngả, kẻ về quê, người theo tu viện trưởng đi nơi khác. Cuộc chia ly thật là buồn thảm. Anh Đêicôla bấy giờ tuy già nua ốm yếu, nhưng ý nhất quyết theo chân tu viện trưởng Côlôniabanô vì lòng lưu luyến. Nhưng vì tuổi già sức yếu, ngài chỉ đi được vài dặm rồi mệt lả không sao đi tiếp được nữạ ngài đành quỳ dưới chân Côlôniabanô để xin phép lành từ biệt và hứa sẽ không trở lại Luyxơi bao giờ. Còn lại một mình với nỗi sầu ly biệt, Đêicôla vừa lang thang qua rừng hoang để tìm chỗ tạm trú. Vừa đói, nhọc, nhất là khát nước quá mà không tìm đâu ra lấy một giọt. Với lòng tin tưởng mãnh liệt Chúa sẽ phù trợ, Đêicôla quỳ gối nguyện cầu.
Rồi như được ơn soi sáng, ngài cầm gậy thọc xuống đất, tức thì một mạch suối trong vọt ra, suối đó ngày nay vẫn còn chẩy và người ta gọi tên là suối thánh Đêicôla.
Sau khi đã giải khát, ông lão lại tiếp tục cuộc hành trình qua hoang địa. Đi mãi đến một nơi kia mới gặp một người chăn lợn. Thấy một ông già gầy còm, có lối trang phục kỳ dị, anh chàng hoảng sợ toan cắm đầu chạy trốn. Nhưng Đêicôla đã lên tiếng ngay để anh chàng yên dạ:
"Tôi chỉ là một lữ khách, một tu sĩ đây mà, có chi mà sợ. Anh có thể làm ơn chỉ cho tôi một nơi nào ở được không?"- Người chăn lợn trả lời:
"Thưa cụ, tôi cũng không được rõ tại đây nơi nào có thể ở được. Nhưng cụ cứ đi nữa tới Luthra, nơi đó tuy hơi lầy, nhưng có thể định cư được vì còn có nước uống".
"Anh có thể làm phúc đưa lão đến đó được không?"
"Chết! Tôi đi sao được, vì còn vướng đàn lợn, ai trông cho mà đi ?"
"Được anh cứ yên trí, tôi sẽ cắm chiếc gậy này ở đây và đàn vật của anh sẽ chỉ ăn quanh quẩn ở đây, không đi đâu xa mà sợ. Anh đừng lo, cứ dẫn tôi tới đó". Sau một giờ hành trình, người đó trở lại và thấy y như lời ông lão nóị Đoàn vật con nào con nấy ăn no rồi quây quần quanh chiếc gậy.
Đêicôla tới một địa điểm mà ngày nay là thành phố Lura (Lure), và dựng lều ở đó. May mắn hơn nữa là gần đấy lại có một ngôi nhà nguyện nhỏ kính thánh Martinô. Ngày ngày Đêicôla đến đó cầu nguyện lâu giờ. Cả ban đêm, dầu xa xôi và tối tăm ngài cũng lần bước tìm đến để tâm sự với Chúa, lòng đạo đức thánh thiện của ngài không bao lâu sau đã được nhiều người ngưỡng mộ. Bà quả phụ của lãnh chúa Vêpharê rất mộ mến và kính phục đức khiêm tốn và khó khăn của ngài. Bà đã nhường quyền sở hữu cho ngài tất cả khu đất chung quanh nhà nguyện, và cung cấp cho thánh nhân nhiều nguồn lợi khác để ngài thiết lập một tu viện. Người ta kể chính thánh nhân đã tìm địa điểm và ngắm phương hướng để đặt nền móng cho tu viện. Và khi đã tìm được vị trí thích hợp, là chính chỗ hiện nay đang để hài cốt của ngài, thánh nhân đã sung sướng kêu lên lời Thánh vịnh: "Đây là nơi tôi an nghỉ đời đời, tôi sẽ ở đây mãi vì tôi ưng ý ."
Ngài cũng xây hai nhà nguyện dâng kính thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Tu viện vừa xây xong đã có nhiều người tìm đến mong nương dưới bóng nhân đức của ngài. Chẳng bao lâu, Đêicôla đã trở nên người cha của một cộng đồng đông đúc giầu lòng hy sinh và quảng đại. Nhịp sống thánh thiện và trầm lặng nơi đây như khép kín trước mọi biến chuyển thăng trầm của thế sự và lòng người đảo điên.
Nhưng bỗng một ngày tiếng chó sủa inh ỏi và với tiếng nhạc ngựa vang rền mỗi lúc một gần phá vỡ bầu không khí yên hàn của tu viện. Thì ra đó là cuộc săn thú rừng do vua Clôtariô II tổ chức. Một con lợn rừng bị đuổi riết. Cùng đường, con vật liền chạy xộc vào ẩn trong buồng riêng của tu viện trưởng Đêicôla. Ngài hiền từ vuốt ve con vật dữ tợn. Các người đi săn vẫn theo hút con thú. Tới nơi họ kinh ngạc thấy con vật dữ tợn đang ngoan ngoãn nép mình dưới chân ông lão. Họ đem câu chuyện lạ lùng kể cho vua nghe. Nhà vua chỉ còn biết kính phục ngài như một vị thánh sống. Sau đó vua tới gặp Đêicôla. Cuộc hội kiến tuy vắn vỏi, nhưng đã thắt chặt thêm mối thân tình. Cử chỉ phong nhã, từ tốn và đức độ của Đêicôla càng làm cho nhà vua thêm kính phục và mộ mến ngài hơn. Nhất nữa, khi vua lại được biết nhà tu hành tuổi tác đó cũng là môn đệ của Côlônianbanô, vua càng tỏ lòng ưu ái đối với Đêicôla. Vua hứa sẽ cung cấp lương thực và nâng đỡ nhà dòng về mọi mặt. Nhưng kinh nghiệm về thế sự thăng trầm và lòng người đổi thay đã khiến con người khôn ngoan đó không quá ỷ lại vào sự giúp đỡ của người trần, nhưng chỉ một lòng tin tưởng vào Chúa Quan phòng; và ngài đã muốn tu viện của mình trực thuộc một mình Toà Thánh mà thôi. Vì thế dù già nua ngài cũng đã lên đường đi Rôma triều yết Đức Giáo Hoàng để xin Ngài chuẩn phê luật dòng.
Tương lai của nhà dòng thế là đã được bảo đảm, và mái tóc bạc phơ của ngài đã báo trước những ngày tàn tạ. Đêicôla đặt Côlôniambanô là môn đệ và cũng là cháu làm tu viện trưởng để thay ngài trông coi tu viện trong những ngày già yếu và khi ngài đã khuất.
Ngày 18-1 năm 625 như linh cảm thấy ngày giờ mệnh chung của mình đã gần đến, ngài cho gọi các tu sĩ lại bên giường ban lời huấn dụ và phép lành sau hết. Rồi sau khi đã chịu của ăn đàng do chính tay Côlôniabanô cháu ngài, thánh nhân từ từ nhắm mắt trút linh hồn giữa lúc tiếng hát kinh của các thầy vừa dứt.
Xác ngài được an táng trong nhà nguyện gần buồng của ngài nằm. Trải qua bao thời kỳ tao loạn và phá phách, mộ ngài vẫn còn đó để chứng kiến lòng tôn sùng của giáo dân.
Tấm Gương Sự Thật
Theo
câu chuyện cổ tích của người Tây Phương về Cô Bạch Tuyết và bảy chú lùn
thì Sự Thật chiếu sáng và nói qua một tấm gương. Khi hoàng hậu, người
kế mẫu của Bạch Tuyết nhìn vào tấm gương sự thật ấy để hỏi về mình, bà
được trả lời như sau: "Thưa hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp nhất hiện
nay". Mà quả thật, so sánh với những người đàn bà đương thời, bà ta là
người đẹp nhất.
Nhưng
công chúa Bạch Tuyết mỗi ngày một lớn và trở nên xinh đẹp. Trắng như
tuyết, đỏ như máu, đen như mun: ba màu sắc ấy kết hợp một cách hài hòa
để mỗi ngày một gia tăng vẻ đẹp cho cô bé, dù chỉ mới lên 7 tuổị Ai cũng
nhận thấy rằng cô đã vượt xa người kế mẫu về sắc đẹp.
Một
hôm, hoàng hậu kế mẫu hỏi ý kiến của chiếc gương Sự Thật một lần nữạ
Lần này, tấm gương đã trả lời: "Thưa hoàng hậu, quả thực hoàng hậu là
người xinh đẹp ít ai sánh bằng. Nhưng hiện nay, công chúa Bạch Tuyết đã
đẹp hơn hoàng hậu bội phần. Ðây là điều mà không ai chối cãi được, 7 chú
lùn đã xác định điều đó".
Người
kế mẫu không muốn chấp nhận Sự Thật ấy. Bà không thể nào chấp nhận một
đứa con riêng của chồng được quyền đẹp hơn Bà. Sự ganh ghét đã bắt đầu
gặm nhấm tâm hồn bà để rồi bà chỉ còn có mỗi một ý nghĩ trong đầu: đó là
loại bỏ người đối thủ tí hon của bà. Bà sai người cho thuốc độc vào một
trái táo rồi mang đến cho Bạch Tuyết. Cô bé bị ngộ độc và đã đi vào cõi
chết, nhưng vẫn giữ nguyên nét đẹp trên gương mặt. Một hoàng tử đã say
mê nhìn khuôn mặt bất động ấy. Chàng đã đặt trên môi Bạch Tuyết một
chiếc hôn. Trái táo độc rớt khỏi môi và Bạch Tuyết đã được hồi sinh.
Người hoàng hậu kế mẫu nghe điều đó. Sự oán hận và ganh tức đã dồn lên
khiêùn cho người đàn bà chết tốt.
Tấm gương Sự Thật của chúng ta chính là Ðức Kitô.
Philatô
đã có lần hỏi Chúa Giêsu: Sự Thật là gì? Chúa Giêsu đã không trả lời
cho câu hỏi ấy. Nhưng hẳn những người môn đệ đã có lần nghe Chúa Giêsu
tuyên bố: "Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống" đều có thể trả lời
cho câu hỏi ấy.
Chúa
Giêsu không chỉ là Sự Thật một cách trừu tượng, một cách trống rỗng, mà
là Sự Thật của con người, đối với con ngườị Cũng chính Philatô, sau khi
đã ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu, đã đưa Người ra trước dân chúng và
tuyên bố: "Này là Người". Này là người, này là con người, hay đúng hơn
là sự thật về con ngườị Chúa Giêsu đã để lộ tất cả con người của ngài
qua những vết thương trên ngườị Phải chăng con người chỉ để lộ nhân tính
và tất cả những nét cao quý nhất của mình qua những lằn roi, qua những
vết thương đau vì yêu thương, vì phục vụ?
Chúa
Giêsu là tấm gương Sự Thật của con ngườị Chỉ qua Ðức Kitô, chúng ta mới
có thể nhận diện được con người đích thực của chúng tạ Nhìn vào Ðức
Kitô, tội lỗi và những bất toàn của chúng ta sẽ hiện ra, nhưng hình ảnh
cao quý được Thiên Chúa in trên mỗi người chúng ta cũng tỏ lộ.