Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015

Tu Đức 10 - @Thiên Phong-Trần Minh Đức Bảy

Filled under:

            Hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo Hoàng Phanxicô về năm Thánh Hiến Đời Sống Tu Trì (từ CN I Mùa Vọng 30.Nov.2014 – đến Lễ Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh 2.Feb.2016); cầu nguyện để có nhiều người tự nguyện dâng hiến cuộc đời sống trọn vẹn tinh thần Lời Khuyên Phúc Âm (thanh khiết, thanh bần, thanh tuân) trong các Dòng Tu, chỉ thuần túy lo việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
            Nhân dịp này, xin cống hiến Quý Vị và Quý Bạn một ít tư tưởng về Tu Đức, không hẳn cho các vị Tu Sĩ, mà mọi người Tín Hữu sống giữa trần gian đều cần phải áp dụng việc Tu Đức trong đời sống rất phức tạp của mình. Hiểu ‘Tu’ là ‘Sửa’, nếu sai lầm, lo sửa cho đúng gọi là ‘tu sửa’, nếu đúng rồi, lo cho được tốt hơn gọi là ‘tu bổ’, lấy việc tu sửa làm chính và trọng, gọi là ‘tu trì’, chỉ khi nào ‘hoàn thiện’ mới thôi. Như vậy, người Tín Hữu cũng cần phải biết tinh thần ‘Sống Tu Đức’ giữa đời.
            Dự trù mỗi tháng, chúng tôi sẽ gửi tới Quý Vị và Quý Bạn một vài đề tài về Tu Đức, để cùng nhau học tập, trong suốt năm tìm hiểu về ‘Đời Sống Tu Trì’ theo ý của Giáo Hoàng Phanxicô. Kính chúc Quý Vị và Quý Bạn đạt thành công như ý nguyện.
            (Vì có một số Quý Vị và Quý Bạn Thân Hữu không cùng tôn giáo và tín ngưỡng, muốn nhận tư liệu, nên có quyền tham khảo, và cũng có quyền bỏ qua. Đa tạ).

(TU ĐỨC.10)

PHƯƠNG THẾ TU ĐỨC
   ĐỐI VỚI THA. GIÁO DỤC
VIII. CHIÊM NGƯỠNG
QUAN NIỆM I
1. Chiêm Ngưỡng Sở Đắc
a- Ý nghĩa:
            Đây là giai đoạn các linh hồn nhiệt thành thường xuyên kết hợp thân mật với Thiên Chúa, nhưng chưa nhận được ơn chiêm ngưỡng thiên phú. Đã quen thi hành các nhân đức và thiên đức, họ cố gắng hoàn thiện các đức tính này, bằng cách lo cho được các ơn Chúa Thánh Thần, ngày càng đơn giản việc chiêm niệm, có người gọi là chiêm niệm sở đắc hay là chủ động.
            Kinh nghiệm cho thấy, trong Tu Viện hay giữa thế gian, có những linh hồn thực nhiệt thành, thường xuyên kết hợp với Thiên Chúa, quảng đại và kiên tâm thi hành các đức tính của tín hữu, có khi cả một cách anh hùng, nhưng không được chiêm ngưỡng thiên phú. Họ sẵn sàng nghe theo Chúa Thánh Thần, thường vâng theo lời Người soi sáng, thỉnh thoảng cũng nhận được những ánh sáng và những tiếng nhắn nhủ riêng, nhưng không có gì biểu lộ cho họ hay cho vị linh hướng của họ biết họ ở trong tình trạng thụ động thực sự.
            Nhất là từ cuối thế kỷ XVII, đã phân biệt chiêm ngưỡng sở đắc và chiêm ngưỡng thiên phú. Có những linh hồn sống lâu với chiêm ngưỡng sở đắc mà không được chiêm ngưỡng thiên phú. Như Linh Mục Garrigou Lagrange OP, giáo sư ở Rôma về thần học và thần bí học, đã nói: Có thể có những linh hồn rất hào hiệp, nhưng thiếu một số điều kiện không tùy ý chí của họ, nên chỉ có thể đến đời sống huyền diệu sau một thời gian lâu dài hơn thời hạn thông thường của chúng ta dưới đất này. Điều ấy có thể không những do môi sinh không thuận tiện, thiếu việc hướng dẫn, nhưng cũng vì tính khí cơ thể.
            Trong các ơn Chúa Thánh Thần, có ơn nhất là để giúp hoạt động, có ơn nhất là để giúp chiêm ngưỡng. Có người có tính khí thiên về hoạt động hơn, và bị nhiều công việc lôi cuốn, lo phát huy riêng các ơn về hoạt động nhiều hơn, thì ít thích hợp với chính việc chiêm ngưỡng. Những người như thế không được hưởng thụ việc chiêm ngưỡng, ít nữa là một cách thường xuyên, nhưng vẫn kết hợp mật thiết với Thiên Chúa trong hoạt động, và dễ dàng theo tiếng Chúa Thánh Thần nhắn nhủ. Người ta gọi đó là giai đoạn hay đường lối kết hợp đơn giản.
b- Các ơn Chúa Thánh Thần:
            1) Nói chung:
            MỘT là Bản chất: Các ơn Chúa Thánh Thần và các đức tính khác nhau là về cách tác động trong linh hồn. Các đức tính giúp chúng ta nghiêng về hoạt động theo bản tính các quan năng; chúng ta sinh hoạt theo các nguyên tắc và quy luật của đức khôn ngoan siêu nhiên; theo đó, chúng ta suy nghĩ, phân giải, hỏi han, lựa chọn v.v..... Còn các ơn Chúa Thánh Thần, lại cho chúng ta tính cách mềm mại và dễ đón nhận để đón nhận và tuân theo ơn thúc đẩy các quan năng; nhưng không làm cho các quan năng mất tự do, như Thánh Thomas đã nói, là linh hồn thụ động hơn chủ động. Nhờ các ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta để ơn Thiên Chúa soi sáng hướng dẫn, rồi bỗng nhiên không có ý tưởng gì của mình, ơn Thiên Chúa soi sáng thúc đẩy mạnh mẽ làm việc này hay việc kia.
            Vì phần ơn thánh trong các ơn Chúa Thánh Thần, lớn hơn nhiều trong các đức tính, nên việc thi hành dưới ảnh hưởng của các ơn Chúa Thánh Thần, thì hoàn hảo hơn việc thi hành dưới ảnh hưởng của các đức tính, nên tất cả các phương diện khác đều bằng nhau. Nhờ các ơn Chúa Thánh Thần thì được bậc thứ ba của các đức tính và người ta làm được những việc anh hùng.
            Có mấy ví dụ có thể giúp cho hiểu rõ hơn những điểm này. Thi hành các đức tính khá ví như chèo thuyền, dùng các ơn Chúa Thánh Thần lại ví như thuyền thả buồm thì lướt tới nhanh hơn và bớt tốn kém sức lực. Một em bé bước tới vài bước nhờ mẹ cầm tay, là hình bóng tín hữu thi hành các đức tính nhờ ơn Thiên Chúa. Còn em bé được mẹ ẵm trong tay để đưa tới nhanh hơn, là hình bóng tín hữu dùng các ơn Chúa Thánh Thần tương đương với ơn Thiên Chúa giúp.
            Như thế, có thể định nghĩa, các ơn Chúa Thánh Thần là những quán tính siêu nhiên, làm cho các quan năng của chúng ta được mềm mại, để mau chóng tuân theo các ơn Thiên Chúa soi sáng.
            HAI là Giá trị: Các ơn Chúa Thánh Thần đặt người ta dưới tác động trực tiếp của Chúa Thánh Thần ngự trị trong linh hồn họ, minh chiếu lý trí họ, chỉ cho lý trí thấy rõ việc người ta phải làm, đốt nóng tâm tình, thêm sức cho ý chí để thi hành điều thiện đã được khiêu gợi. Chính các ơn Chúa Thánh Thần làm cho người ta thi hành các nhân đức và thiên đức, lên bậc hoàn thiện, và soi sáng các việc anh hùng. Nhờ đó, đến khi Thiên Chúa muốn, thì linh hồn được đưa lên việc chiêm ngưỡng thiên phú; nhờ có mềm mại và dễ nghe theo Chúa Thánh Thần soi sáng, thì được chuẩn bị trực tiếp để được vào tình trạng thần bí. Đó là con đường tắt để đến bậc hoàn thiện cao nhất.
            Theo Thánh Thomas, các ơn Chúa Thánh Thần hoàn hảo hơn các nhân đức. Vì các nhân đức không có Thiên Chúa là đối tượng trực tiếp, còn các ơn Chúa Thánh Thần đưa các đức tính lên bậc trên để hợp với đức ái, kết hợp người ta với Thiên Chúa.
            BA là Phát huy: Chúng ta nhận các ơn Chúa Thánh Thần một lần với ơn thánh, đó là những quan năng siêu nhiên. Khi đến tuổi khôn và tâm hồn hướng về cùng Thiên Chúa, dưới ảnh hưởng ơn giúp, chúng ta khởi sự thi hành tất cả các cơ quan siêu nhiên, kể cả các ơn Chúa Thánh Thần, thì không thể tin các ơn này không được sử dụng, và không thể sử dụng trong một khoảng thời gian lâu dài trong đời sống chúng ta.
            Nhưng để cho các ơn Chúa Thánh Thần phát huy theo luật thường và đầy đủ, thì trước hết phải thi hành các nhân đức trong một khoảng thời gian khá dài, nhiều hay ít tùy theo ý Thiên Chúa về chúng ta, và sức chúng ta hợp tác với ơn Thiên Chúa. Vì các nhân đức làm cho linh hồn chúng ta dần dần trở nên mềm mại và được chuẩn bị dễ dàng tuân theo ý Thiên Chúa, để thi hành các ơn Chúa Thánh Thần. Chính những ơn này lớn lên như quán tính với ơn thánh năng gia tăng dũng lực của mình, và dũng lực các nhân đức, tuy chúng ta không có ý thức, nhưng giúp chúng ta thi hành các việc siêu nhiên.
            Cũng có những cơ hội với ơn giúp của Chúa Thánh Thần, Người gây nên tạm thời một nhiệt tình khác thường như một chiêm ngưỡng tạm thời. Có những lúc mọi linh hồn nhiệt thành cảm thấy bỗng nhiên được ơn Thiên Chúa soi sáng, rồi chỉ biết đón nhận và tuân theo ơn Thiên Chúa thúc đẩy. Như có khi đọc Phúc Âm hay một sách đạo đức, hoặc rước lễ, hoặc viếng Thánh Thể, hay là trong dịp tĩnh tâm, hoặc trong lúc chọn đời sống, trong khi thụ phong chức thánh, trong giờ lãnh nhận áo Dòng, hình như ơn Thiên Chúa đưa người ta lên một cách dịu dàng cương quyết.
            Thi hành các nhân đức là điều kiện thứ nhất cần thiết để phát huy các ơn Chúa Thánh Thần. Sau nữa, là phải dẹp bỏ tinh thần thế gian phản ngược hoàn toàn tinh thần Thiên Chúa. Lại phải dùng những phương thế tích cực và trực tiếp đặt mình dưới tác động của Chúa Thánh Thần: MỘT , tập trung tinh thần, là năng nhớ Thiên Chúa ngự trị nơi mình. HAI , sãn sàng hy sinh để tuân theo mau chóng và hào hiệp, những ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, tận trong những điều nhỏ mọn nhất. BA , đem lòng tín nhiệm hợp với Chúa Cứu Thế và Đức Mẹ, mà kêu cầu Chúa Thánh Thần.
            2) Nói riêng:
            MỘT là Ơn chỉ bảo hoàn thiện đức khôn ngoan, bằng cách làm cho người ta nhận xét mau chóng và chắc chắn, nhờ một thứ trực giác siêu nhiên điều gì nên thi hành, nhất là trong những trường hợp khó khăn.
            Ơn này cần cho mọi người trong những dịp quan trọng hơn và khó khăn, can thiệp đến hạnh phúc vĩnh cửu và thánh hóa chính mình, như khi phải tìm biết ơn thiên triệu hay là tránh tội lỗi, chính trong lúc thi hành nhiệm vụ.
            Để phát huy, trước phải thấy sâu xa tính bất lực của mình, năng kêu xin Chúa Thánh Thần cho biết đường lối của Người; và phải tập cho quen lắng tai nghe tiếng Người, nhận định theo ánh sáng của Người, không chiếu theo những ý tưởng thông thường của người ta, nhưng theo thánh ý của Chúa Thánh Thần soi sáng cả trong những điều nhỏ.
            HAI là Ơn đạo đức hoàn thiện đức tính tôn giáo, làm cho có tính hiếu thảo đối với Thiên Chúa, tôn kính những người và những việc thuộc về Thiên Chúa, giúp cho nhiệt thành một cách thánh thiện để thi hành các bổn phận tôn giáo.
            Tất cả các tín hữu đều cần có ơn này để vui vẻ và nhiệt thành thi hành các bổn phận tôn giáo đối với Thiên Chúa, tôn kính và vâng lời các cấp trên, khoan dung với cấp dưới. Không có ơn này, người ta chỉ nhìn Thiên Chúa là chủ, cầu nguyện là một gánh nặng hơn là an ủi, thử thách là hình phạt nghiêm khắc hay là bất động. Trái lại, với ơn này, người ta nhận thấy Thiên Chúa là Cha, vui vẻ, hiền hậu, hiếu thảo, thờ kính, tuân phục, trong những điều trái ý, tin Thiên Chúa muốn cho mình được tránh khỏi tội lỗi và kết hợp với Thiên Chúa thân mật hơn.
            Chính mình năng suy gẫm những bài Thánh Kinh nói về tình Thiên Chúa nhân từ và thương xót như Cha đối với người ta, nhất là đối với người công chính. Thiên Chúa muốn cho người ta nhận Thiên Chúa và mến Thiên Chúa như Cha, trong mọi cơn khốn khó phải kêu xin Người, với lòng nhiệt thành và tín nhiệm của một người con. Có như thế mới phát huy ơn đạo đức.
            BA là Ơn dũng cảm hoàn thiện đức tính cũng làm cho ý chí được thôi thúc và thêm khí lực, giúp cho vui vẻ và dạn dĩ thi hành, hay là chịu đựng những việc lớn lao, mặc dù có mọi thứ trở ngại, khó khăn, đau đớn, cần phải nỗ lực, có khi là anh hùng.
            Trong nhiều trường hợp, cần phải có ơn này để làm được những việc anh hùng mà giữ trung thành với Thiên Chúa.
            Muốn phát huy ơn này, cần phải khiêm tốn nhận tính bất lực của mình. Thiên Chúa quan phòng, dùng những con người yếu đuối nhất, miễn là họ có ý thức tính yếu đuối của họ và dựa vào Đấng duy nhất có thể thêm sức mạnh cho họ. Nhất là nhờ việc rước Thánh Thể mà tìm được nơi Chúa Cứu Thế sức mạnh cần thiết để lướt thắng trở ngại.
            BỐN là Ơn kính sợ nghiêng ý chí của người ta về lòng tôn kính hiếu thảo đối với Thiên Chúa, giúp xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi làm mất lòng Thiên Chúa, và giúp hy vọng quyền năng của Thiên Chúa cứu độ.
            Ơn này cần thiết để tránh khỏi nhàm lờn quá với Thiên Chúa. Có người quên Thiên Chúa chí tôn, và ta xa cách Thiên Chúa vô cùng; không được tự do xứng đáng với Thiên Chúa, đừng thưa với Thiên Chúa bạo dạn quá, đừng kể mình như ngang hàng với Thiên Chúa. Vẫn hay chính Thiên Chúa mời một số linh hồn thân mật dịu dàng với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa gọi trước, không phải người ta. Vả lại, lòng hiếu thảo kính sợ của một người con không ngăn cản việc thân mật âu yếm.
            Để phát huy ơn này, phải năng suy gẫm tính cao trọng vô cùng của Thiên Chúa; các đặc tính và quyền bính của Người trên chúng ta, theo ánh sáng đức tin mà nhận biết tội lỗi là thể nào, dù là nhẹ nhất cũng đã xúc phạm đến Thiên Chúa uy nghi vô cùng.
            NĂM là Ơn hiểu biết hoàn thiện đức tin dưới ơn minh chiếu của Chúa Thánh Thần, làm cho biết tương quan giữa thụ tạo với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa.
            Rất cần thiết cho Giáo Hữu, nhất là cho Tu Sĩ, Linh Mục. Vì cho biết thụ tạo hư vô, không thể đem hạnh phúc đến cho con người, lại có thể nguy hiểm lôi cuốn người ta xa cách Thiên Chúa. Nhờ biết như thế, người ta có thể từ bỏ thụ tạo và sử dụng thụ tạo để đến cùng Thiên Chúa.
            Phương thế phát huy ơn này, là luôn luôn mở mắt đức tin mà nhìn thụ tạo, hơn là dừng lại nơi những bóng dáng này.
            SÁU là Ơn trí tuệ theo ơn minh chiếu của Chúa Thánh Thần làm cho người ta được trực giác sâu xa những chân lý mặc khải, nhưng không thể hiểu mầu nhiệm.
            Theo Thánh Thomas, ơn này giúp người ta đi vào các chân lý mặc khải theo sáu cách khác nhau: MỘT là biết bản thể ẩn dưới các phụ tính, như biết Thân và Máu Chúa Cứu Thế trong hình bánh và rượu. HAI là hiểu nghĩa các từ, như Thiên Chúa đã cho các môn đệ trên đường Emmau hiểu nghĩa các lời tiên tri. BA là hiểu ý nghĩa mầu nhiệm các dấu hữu hình, như Thánh Phaolô đã cho hiểu nghĩa Bí Tích Rửa Tội là chết cho tội lỗi, an táng và sống lại thiêng liêng cùng Chúa Cứu Thế. BỐN là hiểu thực sự tinh thần trong biểu hiện bên ngoài, như hiểu Thiên Chúa trong biểu hiện người thợ ở Nazareth. NĂM là thấy hiệu quả trong nguyên nhân, như hiểu Máu Chúa Cứu Thế đổ ra để rửa sạch linh hồn người ta. SÁU là thấy nguyên nhân trong hậu quả, như thấy việc Thiên Chúa quan phòng trong các biến cố.
            Ơn trí tuệ cũng giúp cho người ta biết các chân lý đức tin, tuy không hiểu được nhưng cũng thêm vững vàng tin tưởng, và lên bậc cao hơn là chiêm ngưỡng Thiên Chúa, không phải trực giác tích cực trực tiếp yếu thể Thiên Chúa, nhưng biết điều gì không phải là Thiên Chúa.
            Để được ơn này, cần phải có lòng tin sống động và đơn giản, khiêm tốn mà xin ánh sáng của Thiên Chúa đã nhận được các chân lý mặc khải.
            BẢY là Ơn khơn ngoan hoàn thiện đức ái, giúp người ta nhận biết Thiên Chúa và những điều về Thiên Chúa trong những nguyên ủy tối cao và được thưởng thức.
            Ơn này gia tăng đức ái và hoàn thiện tất cả các đức tính, làm cho đức tin vững vàng, đức cậy kiên cố và thi hành các nhân đức một cách hoàn thiện.
            Phải nhiệt tình mong muốn, gắn bó cầu xin và nồng nàn tìm kiếm không ngừng. Phải cố gắng tìm xem tất các chân lý do từ Thiên Chúa, như nguyên ủy thế nào và quy về Thiên Chúa là cứu cánh làm sao.
c- Nhiệm vụ:
            Trước khi các ơn Chúa Thánh Thần được phát huy đầy đủ, trong lúc mới khởi sự, cũng thêm ánh sáng và ảnh hưởng cho các đức tính để giúp cho dễ dàng chiêm niệm. Tuy chưa đưa người ta vào tình trạng thụ động hay thần bí, cũng đã làm cho linh hồn trở nên mềm mại và dễ đón nhận động tác của Chúa Thánh Thần.
            Trong lúc đó, các ơn này được gây ảnh hưởng tiềm tàng, không phân biệt được đâu là việc của ơn, đâu là việc của đức; nhưng cũng có khi việc của ơn rõ ràng hơn, khiến cho người ta có những trực giác tạm thời mạnh hơn lý luận, gây ra những phản ứng yêu mến cao hơn những phản ứng cảm thấy thông thường.
Các ơn này giúp người ta trong khi chiêm ngưỡng chủ động có một thứ trực giác yêu mến chân lý. Đó là việc riêng của ơn trí tuệ và ơn khôn ngoan, ngay từ trước khi phát huy đầy đủ để giúp cho trí tuệ nhận thấy hơn và yêu mến hăng nồng hơn, để dễ dàng nhìn thấy với đức tin.
            Tuy nhiên, nhất là trong chiêm ngưỡng thiên phú, các ơn Chúa Thánh Thần có nhiệm vụ quan trọng, là khi đã phát huy đầy đủ, thì làm cho linh hồn mềm mại một cách kỳ diệu, để có thể vào tình trạng thần bí hay là chiêm ngưỡng. Ba ơn hiểu biết, trí tuệ và khôn ngoan, hợp nhau một cách riêng, để giúp việc chiêm ngưỡng. Còn bốn ơn kia, tuy không có nhiệm vụ quan trọng như thế trong việc này, nhưng cũng có một phần nào, là làm cho linh hồn mềm mại hơn, và sẵn sàng để theo tác động của Chúa Thánh Thần. Lại kích thích trong lòng người ta những tâm tình đạo đức để giữ vững chiêm ngưỡng, là ơn sợ hãi gây tình cảm hối hận và từ bỏ thụ tạo; ơn đạo đức gây tình cảm hiếu thảo; ơn dũng cảm gây tình cảm hào hiệp và kiên cố; ơn chỉ bảo đón nhận ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
d- Ngũ quan thiêng liêng:
            Một số các Giáo Phụ và thần học gia, cùng nhiều người viết thần bí học, nói về ngũ quan thiêng liêng. Như Thánh Augustin diễn tả “Ôi! Lạy Thiên Chúa, khi con mến Thiên Chúa là con mến gì? ..... Con mến một ánh sáng thế nào, một giọng nói thế nào, một lương thực thế nào, vòng ôm thế nào: Tất cả những thứ đó chỉ nhận thấy vì một thứ gì trong người con. Linh hồn con thấy chiếu một ánh sáng không có trong không gian, nghe một âm thanh không tắt với thời gian, ngửi một mùi thơm gió không đưa đi, nếm một món ăn tính thèm không giảm bớt, bám vào một vật lòng no không rời. Đó là thứ tôi mến, khi tôi mến Thiên Chúa của tôi”.
            Hình như đó là những việc của ơn Chúa Thánh Thần, nhất là ơn trí tuệ và ơn khôn ngoan. Các quan giác thiêng liêng về thị giác và thính giác quy về ơn trí tuệ, làm cho người ta trông thấy Thiên Chúa và các điều thuộc về Thiên Chúa, và nghe tiếng Thiên Chúa nói với cõi lòng. Còn ba giác quan khác quy về ơn khôn ngoan, làm cho người ta mến được Thiên Chúa, thở hay ngửi được các mùi thơm hoàn thiện của Người, vào kết hợp với Người như bằng một vòng ôm xiết chặt thiêng liêng, không khác gì thực nghiệm tình mến Thiên Chúa.
 e- Các quả Chúa Thánh Thần:
            Khi một linh hồn trung thành đáp lại các ơn giúp khiêu động các đức tính và các ơn Chúa Thánh Thần, làm được những việc của đức tính, trước còn kém cỏi vất vả, sau lại tốt đẹp và thích thú hơn, khiến cho lòng đầy vui vẻ một cách thánh thiện. Đó là những quả Chúa Thánh Thần.
            Thánh Phaolô kể 9 quả trong câu “Quả Chúa Thánh Thần là: Bác ái, hoan hỷ, bình an, kiên nhẫn, nhân từ, khoan dung, trung tín, hiền hậu, tiết độ” (Gl 5,22-23, theo bản dịch Hy Lạp và Đại Kết, TOB). Còn theo bản dịch Phổ Thông, lại kể đến 12: Bác ái, hoan hỷ, bình an, kiên nhẫn, khoan dung, nhân từ, hào hiệp, hiền hậu, trung tín, khiêm tốn, tiết độ, thánh khiết. Thánh Thomas nói con số đó chỉ tượng trưng, thực ra vẫn nói đến tất cả các việc nhân đức khiến cho người ta được thích thú (Ia IIae q.70  a.2).
            Các quả này khác các đức và các ơn, như hiển thế khác tiềm thế. Nhưng không phải tất cả các việc nhân đức đều đáng gọi là quả; chỉ có những việc làm cho người ta khoái lạc thiêng liêng. Lúc đầu, các việc nhân đức năng đòi hỏi nhiều cố gắng, và có khi phải chua chát thế nào như quả chưa chín. Nhưng đến khi đã thi hành lâu ngày, người ta thấy dễ dàng, không phải cố gắng vất vả, lại còn thấy thích thú, như những việc đã có thói quen, lúc ấy mới gọi là quả, là đã phát huy các đức tính và các ơn Chúa Thánh Thần.
 g- Các mối phúc thật:
            Đã có quả Chúa Thánh Thần thì cũng được hạnh phúc chân thật, tiên báo hạnh phúc thiên đàng. Chúa Cứu Thế đã quy về Tám Mối Phúc Thật: Tinh thần thanh bần, hiền hậu, khóc lóc, đói khát công chính, nhân từ, lòng thanh sạch, xây dựng hòa bình, kiên nhẫn trong lúc bị bách hại.
            Nhưng số 8 chỉ là tượng trưng, chứ không kể hết. Cũng chưa nói đến hạnh phúc tuyệt đối và hoàn toàn, chỉ là những phương thế để đến hạnh phúc vĩnh cửu, cũng là những phương thế rất hiệu lực. Vì khi đã vui lòng nhận lấy cảnh thanh bần, hiền hậu, thanh khiết, khiêm tốn, biết tự chủ đến nỗi biết cầu nguyện cho kẻ nghịch thù và yêu mến thập giá, theo gương hoàn toàn Chúa Cứu Thế, thì tiến bước mau chóng trên đường hoàn thiện.
2. Chiêm Niệm Đơn Giản
a- Từ ý:
            1) Thánh Têrêsa Avila gọi là chiêm niệm tập trung, là tập trung chủ động, trái với tập trung thụ động; linh hồn tập trung các quan năng để quy về Thiên Chúa, nghe Thiên Chúa và mến Thiên Chúa.
            2) Nhiều người hiểu là chiêm niệm với cái nhìn đơn giản, với sự hiện diện đơn giản của Thiên Chúa, hay là với việc phó mình đơn giản trong tay Thiên Chúa, cái nhìn đơn giản theo đức tin, vì linh hồn chăm chỉ nhìn Thiên Chúa một cách yêu mến, giữ mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa, phó mình trong tay Thiên Chúa, nhìn Thiên Chúa và mến Thiên Chúa.
            3) Giám Mục Bossuet gọi là chiêm niệm đơn giản, vì mọi sự đều đơn giản, cả lý luận và cả tâm tình, toàn cả cuộc đời.
            4) Các Tu Sĩ Dòng Cát Minh, và nhiều tác giả từ thế kỷ XVII, gọi là chiêm niệm sở đắc, để phân biệt với chiêm ngưỡng thiên phú.
b- Bản chất:
            Chỉ có hai việc thiết yếu: Nhìn và Yêu Mến, nhìn Thiên Chúa hay điều gì thuộc về Thiên Chúa để mến Thiên Chúa, và mến Thiên Chúa để nhìn Thiên Chúa kỹ hơn.
            Việc đơn giản thứ nhất là giảm bớt rồi bỏ hẳn lý luận đã chiếm một phần lớn trong việc suy niệm của những người khởi sự. Vì cần có những xác tín sâu xa và chưa quen với những lời yêu mến đạo đức, họ cần phải suy tư lâu dài về những chân lý cơ bản của tôn giáo, và tương quan giữa các chân lý đó, với đời sống thiêng liêng. Họ cũng cần phải suy tư về bản tính và tính cách cần thiết của những tính quan trọng và các phương thế thi hành, trước khi phát xuất từ cõi lòng những tình cảm tạ ơn, yêu mến, ái hối, khiêm tốn và nhất quyết, với những lời cầu xin nồng nhiệt và lâu dài.  
            Nhưng đến lúc những xác tín đó đã vững chắc trong linh hồn, đến nỗi thành ra một phần trong tâm trạng thường xuyên, và khi cần vài phút để nhắc lại trong tâm trí, thì phát xuất mau chóng và dễ dàng phát xuất những lời yêu mến đạo đức, thành ra chiêm niệm tâm tình như đã nói ở trên.
            Sau đó, một việc đơn giản khác: Một vài phút suy nghĩ được thay thế bằng một cái nhìn trực giác của trí tuệ. Có thể biết dễ dàng bằng một thứ trực giác các nguyên lý. Như ý tưởng Cha nói về Thiên Chúa, lúc đầu cần phải suy nghĩ lâu dài để hiểu biết cho đầy đủ, bây giờ bỗng nhiên thấy rõ ràng, sung túc, khiến cho người ta có thể dừng lại lâu dài với một mối tình yêu mến để thưởng thức nhiều yếu tố.
            Cũng có khi linh hồn chỉ cần một cái nhìn mập mờ về Thiên Chúa hay điều gì thuộc về Thiên Chúa. Giữ mình dịu dàng và yêu mến trước hiện diện của Thiên Chúa, và làm cho mình sẵn sàng tuân theo động tác của Chúa Thánh Thần, không cần phải có nhiều việc của trí tuệ hay ý chí, phó mình trong tay Thiên Chúa để thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa.
            Một việc đơn giản khác tương tự trong tâm tình. Lúc đầu thì có nhiều tâm tình khác nhau và kế tiếp nhau mau chóng, như yêu mến, tạ ơn, vui mừng, thông cảm, đau đớn vì tội lỗi, muốn làm cho tốt hơn, kêu xin ơn Thiên Chúa cứu giúp ..... Nhưng không bao lâu lại chỉ có một tâm tình kéo dài trong năm hay mười phút, như ý tưởng Thiên Chúa là Cha gợi lên trong lòng một tình yêu mến nồng nhiệt, không nói ra nhiều lời, nhưng trong mấy phút chiếm khắp linh hồn, đi vào sâu xa và gây nên những tâm tình sẵn sàng tuân theo ý Thiên Chúa. Vẫn hay một ý tưởng như thế không chiếm đủ cả buổi chiêm niệm, còn cần phải có những ý tưởng và tâm tình khác, để cho khỏi chia trí hay là một thứ trống rỗng, nhưng mỗi ý tưởng hay tâm tình chiếm một khoảng lớn đến nỗi không cần phải có nhiều như trước kia.
            Trong những ý tưởng hay tâm tình như thế, có khi có một chiếm trị và trở lui trong trí và trong lòng, thành ra chủ ý hay chủ tâm. Còn những ý tưởng hay tâm tình khác đều quy về hay tùy thuộc ý tưởng hay tâm tình đó. Như có người nhớ đến việc Thiên Chúa chịu nạn hay việc Thiên Chúa hiện diện trong Thánh Thể.
            Việc đơn giản hóa như thế, không bao lâu lan rộng ra cả cuộc đời, từ sáng đến tối, từ ngày này qua ngày khác, giữa các công việc nhiệm vụ khác nhau, nhưng vẫn kết hợp với Thiên Chúa, nhìn Thiên Chúa và mến Thiên Chúa.
c- Lợi ích:
            Chiêm niệm hay chiêm ngưỡng như thế, trước là vinh danh Thiên Chúa, vì được biết Thiên Chúa và mến Thiên Chúa hơn, quên chính mình và quên các thụ tạo, hay là chỉ thấy thụ tạo trong những mối tương quan với Thiên Chúa. Cả cuộc đời thành ra một việc kéo dài của đức tính tôn giáo, là việc tạ ơn và kính mến, nói lên cùng Đức Mẹ “Linh hồn con chúc tụng Thiên Chúa”.
            Sau là linh hồn được thánh hóa, vì nhờ tập trung chú ý vào một chân lý trong một khoảng thời gian lâu dài, làm cho mình biết Thiên Chúa rõ hơn, kết hợp với Thiên Chúa thân mật hơn, kéo xuống cho mình những hoàn thiện của Thiên Chúa, và những đức tính của Chúa Cứu Thế.
            Ngày nay càng dễ dàng từ bỏ thụ tạo, khi đã thường xuyên nhớ tưởng Thiên Chúa, thì thụ tạo chỉ còn xuất hiện với mình như  những bậc thang để cho mình lên cùng Tạo Hóa. Chúng đầy hèn kém và khốn khổ thì chúng chỉ có giá trị trong lúc chúng phản ánh hoàn thiện của Thiên Chúa, và nhắc mình trở nên cùng căn nguyên của mọi điều tốt đẹp. Đức khiêm tốn cũng trở nên dễ dàng hơn, vì theo ánh sáng của Thiên Chúa, mọi người nhận thấy rõ ràng tính cách hư vô và tội lỗi của mình, vui mừng vì thấy nhờ hạ mình xưng thú tội lỗi, mình có thể chúc tụng Đấng duy nhất đáng mọi vinh quang. Không còn đặt mình trên người khác, lại nhìn mình như kẻ tội lỗi cuối cùng, sẵn sàng với lòng yêu mến chịu đủ thứ thử thách và nhục nhã.
d- Cách thức:
            Trước là dấu hiệu Thiên Chúa gọi mình vào việc chiêm niệm đơn giản:
            MỘT là nhàm chán thế nào việc chiêm niệm suy tư lý luận, hay là có nhiều tâm tình phiền toái, và thấy ít lợi ích trong những việc này. Dĩ nhiên là nói về linh hồn nhiệt thành cố gắng suy tư, chứ không phải một linh hồn nguội lạnh nhất định sống tầm thường.
            HAI là được lôi cuốn thế nào về việc đơn giản hóa chiêm niệm, để chăm chú nhìn Thiên Chúa và giữ mình trước Thiên Chúa hiện diện, hợp với lợi ích có được trong việc này.
            Trong thực tế, khi một vị linh hướng thấy một linh hồn nhiệt thành gặp phải khó khăn lớn trong việc suy tư lý luận, hay là không ưa thích nhiều tâm tình phiền toái, thì nên cho họ biết những điểm chính về việc chiêm niệm đơn giản, và khuyến khích họ thử xem, và bảo họ trình cho mình biết hiệu quả thu được thế nào; nếu có hiệu quả tốt, thì khuyên nên tiếp tục.
            Chính việc chiêm niệm đơn giản thì không có phương pháp riêng, vì chỉ có nhìn và yêu mến. Chỉ tùy tính khí, khả năng và khuynh hướng của mỗi người mà khuyên bảo.
Đối với những người cần đưa giác quan về một vật gì hữu hình, thì khuyên bảo họ đưa mắt về thánh giá, nhà chầu, hay một ảnh tượng, có thể tập trung tư tưởng về Thiên Chúa.
            Đối với những người mạnh về tưởng tượng, lại khuyên họ tưởng tượng một chuyện trong Phúc Âm, không phải về chi tiết, nhưng đại khái, như về việc Chúa Cứu Thế ở trong vườn Cây Dầu hay trên Núi Sọ, để chiêm ngưỡng Người với lòng yêu mến, nhớ Người đã chịu đau đớn vì thương yêu mình.
            Những người ưa thích đọc dịu dàng một đoạn Thánh Kinh hay một Lời Nguyện đạo đức để thưởng thức hay để nguôi lòng, thì nên chép lại những lời họ cho là hay nhất, để đọc lại trong những lúc được ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn.
            Những người thiên về tâm tình, lại nên nói những lời mến Thiên Chúa, như: Lạy Thiên Chúa, con mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức con, vì Thiên Chúa là Yêu Mến .....
            Những người thiên về ý chí, không thể suy nghĩ hay là nói nặng, lại dễ bị khô khan và đãng trí, lòng không có những tâm tình đạo đức, thì nên cố gắng muốn để cả thời giờ chiêm niệm mà mến Thiên Chúa, muốn mến Thiên Chúa hơn yêu chính mình, muốn phó mình theo ý Thiên Chúa .....
            Cũng nên chuẩn bị đề tài, ít nữa là từ đêm hôm trước, và cũng phải có quyết định cuối giờ chiêm niệm. Nhưng khi nghe được Chúa Thánh Thần nhắn nhủ về đề tài hay quyết định, thì phải theo ý Người. Nhưng đề tài hay quyết định của mình phải đơn giản mà rõ ràng, cho hợp với đặc tính của chiêm niệm này.
e- Tương quan:
            Thực ra, chiêm niệm đơn giản là chiêm ngưỡng sở đắc, nên nó tương quan với chiêm ngưỡng thiên phú. Việc trước chuẩn bị việc sau. Nhờ có việc trước, linh hồn có điều kiện đón nhận ơn Thiên Chúa về việc sau. Theo thường, việc sau tiếp tục việc trước, ngoại trừ những linh hồn nào có điều kiện làm sao, hay tùy theo ý Thiên Chúa mầu nhiệm thế nào, không có việc trước mà cũng được việc sau.
3. Chiêm Ngưỡng Thiên Phú
a- Đại ý :
            MỘT là Bản chất: Ngày xưa, không phân biệt rõ ràng chiêm ngưỡng sở đắc và chiêm ngưỡng thiên phú.
...