“Người Do Thái lại lấy đá để ném Đức Giê-su”. 1)(Ga 10,3
“Người Do Thái lại lấy đá ném Đức Giê-su” nghĩa là họ đã từng ném đá Đức Giê-su rồi.
Lần này họ lại tiếp tục ném đá Người chứng tỏ lòng họ nhất quyết từ chối tin vào Người, bất kể việc Người làm, họ cố tình không tin vì họ bị giới hạn bởi những định kiến dầy đặc.
Họ không chịu đổi mới tư tưởng của mình mà chỉ giữ lập trường cho rằng: Đức Giê-su chỉ là con người phàm trần.
Trong đời sống thường ngày tôi vẫn thường đóng khung thành kiến với anh em, không bao giờ có cái nhìn đổi mới về họ. Hay trong đời sống đạo thì lại đi theo lối mòn thói quen như làm các việc đạo đức, tham dự phụng vụ... tất cả đều làm theo thói quen, vụ hình thức mà không có chút ý thức nào. Vì tôi chưa tin nhận Chúa thật sự.
Lạy Chúa, xin cho con biết mỗi lần con không chịu lắng nghe lời Chúa và không thi hành Lời Ngài là mỗi lần con ném đá Ngài. Amen.
THÁNH TURIBIÔ MONGRÔVEJÔ
GIÁM MỤC
(1536-1606)
Có những trẻ em như đã biết Chúa làm gì, trong khi những người khác phải lo tìm kiếm. Những trẻ này biết an ủi và giúp đỡ người khác. Chẳng hạn dân Mayorga nước Tây Ban Nha, ngày kia, được thấy một em bé đến bên một phụ nữ đang giận dữ. Bà này mất một vật mà không mong tìm lại được. Đứa trẻ nhã nhặn giải thích cho bà rằng: đừng nên làm như vậy, bởi vì điều đó làm phiền lòng Chúa. Đứa trẻ tốt lành và tế nhị này tên là Turibiô, con thứ của lãnh Chúa Mongrovejo. Ở trường Valladolid, rồi ở Salamanca ngài thường nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo. Ngài còn muốn thống hối thay cho các tội nhân đến nỗi ngài bị buộc phải bớt các hy sinh. Người ta có thể tiên đoán là ngài sẽ thành một tông đồ bởi ngài đã biết sống đứng đắn.
Khi đã lớn đủ, cùng với sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, ngài được vua Philipphê II đặt làm chánh án toà án Granada. Khi giáo phận Lima trống ngôi năm 1578, thật ngạc nhiên khi người được chỉ định làm Giám Mục lại là Turibiô một giáo dân. Nghe tin này Turibiô khóc ròng, ngài quì dưới chân thánh giá viết thư cho nhà vua, trong đó ngài tự diễn tả như một kẻ thù tồi tệ của vua vì những bất xứng của mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay chuyển được ai. Ngài thụ phong linh mục rồi giám mục, và nhận giáo phận năm 1581.
Địa phận dành cho Turibiô có những khó khăn đến nỗi có thể ngăn chặn ngài lại nếu ngài không phải là một vị thánh. Giáo phận có chu vi là sáu trăm dặm, gồm nhiều thành phố và làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes. Người Tây Ban Nha khai phá Tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn cải hóa bằng roi, họ bắt dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ thông cho dân những tật xấu của mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ, Turibiô không thể cầm được nước mắt. Ngài quở trách những người chinh phục vì những lạm dụng cướp bóc của họ và tuyên cáo rằng: Những cớ vấp phạm ấy phải dừng lại cho chân lý và tình thương ngự trị. Vị mục tử đi tìm kiếm mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao tuyết phủ, thú rừng hung tợn, tất cả đều không làm ngài nản chí. Những người Tây Ban Nha quyền thế trở thành Phó vương và cả đến vua Philipphê II do những báo cáo sai lầm đã trách cứ ngài. Nhưng tất cả những luật lệ nghiêm khắc đã không làm cho ngài tháo lui. Ngài biện hộ rằng chính Chúa Kitô chứ không phải thế gian phán xét ngài.
Turibiô học ngôn ngữ dân Pêru. Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân từ. Lòng bác ái nhân từ của ngài đối với họ không có giới hạn. Khi ngài tới một làng hẻo lánh, dân chúng đổ xô đến với ngài. Trước hết ngài thăm hỏi những người đau yếu, và khi không chữa chạy cho họ được, ngài dạy cho họ biết chết lành. Khi phân phát tình yêu Chúa Kitô, ngài cũng tái lập sự công bình. Dần dần các thành phố và cả những nơi cô quạnh có người Kitô hữu cư ngụ đông đảo. Thánh Turibiô thiết lập các chủng viện, các viện cứu tế. Trong 25 năm, ngài đi thăm viếng giáo phận rộng lớn và hoang dã của mình ba lần, mỗi lần phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi toà mỗi sáng. Người ta nói rằng: khi cầu nguyện, ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia sáng siêu nhiên. Mệt nhọc đã là một việc sám hối rồi, ngài còn hy sinh và ăn chay thêm nữa. Khi có cơn dịch trong giáo phận, ngài tăng gấp đôi lời cầu nguyện hãm mình. Ngài cũng tổ chức nhiều cuộc rước, khi tham dự chính ngài rơi lệ ướt cả thánh giá cầm trong tay.
Trong khi bắt đầu cuộc kinh lý mới, ngài đã ngã bệnh tại Santa, ngài chỉ biết lập lại lời thánh Phaolô:
- Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của thể xác để kết hợp với Chúa Giêsu Kitô.
Gần chết, ngài xin những người chung quanh hát lời kinh:
- Tôi vui mừng khi nghe nói cùng tôi: chúng ta đi về nhà Thiên Chúa.
Thế là cái chết của ngài được coi như một cuộc lễ. Lời cuối cùng của ngài là lời vua thánh tiên tri:
- Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa.
Tự đi tới thánh đường Santa để lãnh của ăn đường, ngài qua đời năm 1606.
Cầu Xin và Cảm Tạ
Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thủy tiên tuyệt đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những chiếc hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo: "Có phải Chúa đã làm ra những bông này không, em muốn gọi dây nói để cảm ơn Chúa đã cho chúng ta những cái bông đẹp".
Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: Một đường dây cho những kẻ cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn. Trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:
Hai Thiên thần được sai xuống trần gian, môic vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau đểđi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.
Sau một thời gian, hai Thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của Thiên Thần kia có vẻ nhẹ như đựng toàn bông gòn.
"Ông mang gì mà nặng thế?", một Thiên Thần hỏi. Thiên Thần mang giỏ nặng trả lời: "Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?".
"À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời cám ơn Thiên Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ".
Sự thật về hai cái cân nặng nhẹ của những lời cầu xin và những lời cám ơn trên cũng được bài Tin Mừng về 10 người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành bệnh thuật lại như sau: Một trong bọn họ thấy mình được làm sạch, bèn quay trở lại lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người. Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả 10 người được làm sạch sao? Còn 9 người kia đâu? Sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?".
Ðể sống trọn lời Chúa, ước gì cuộc sống chúng ta được diễn ra hằng ngày theo lời khuyên sau đây: Hãy chỗi dậy với tâm hồn thư thái và hãy tạ ơn cho một ngày mới mình được yêu thương.