Tin Mừng Chúa Giê-su Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 9: 14-15)
14
Bấy giờ, các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: "Tại sao
chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn
chay? "15 Đức Giê-su trả lời: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới
lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày
chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay.
SUY NIỆM 1
Trong xã hội Việt Nam ngày nay, có những phe nhóm đặc quyền đặc lợi. Báo chí gọi đó là “nhóm lợi ích”. Những nhóm lợi ích này có người đỡ đầu. Họ chia chác nhau những hợp đồng béo bở, những gói thầu lãi lớn, họ xây dựng đế chế tài chính mờ ám làm giàu cho chính họ.
Nói tới phe nhóm là nói tới sự chia rẽ. Đụng tới quyền lợi của phe nhóm là đụng tới lợi ích sống còn của họ. Trong đời sống kinh tế dân sự, họ sẵn sàng tranh giành hơn thua.
Trong đời sống tôn giáo, phe nhóm càng nhiều thì sự thống nhất tôn giáo càng bị xâu xé và mất dần đi tính chân truyền.
Thời Cựu ước, chúng ta thấy lịch sử dân Thiên Chúa bị xâu xé thế nào khi dân Chúa chia rẽ nhau. Khi nào dân hợp nhất, thì dân ấy vững mạnh và được Thiên Chúa độ trì. Một tiên tri hay một thủ lãnh nào đó đóng vai trò đại diện Thiên Chúa để hợp nhất dân lại.
Thời Chúa Giêsu, lịch sử ấy vẫn tái hiện, dù là Đấng Thiên Sai đã đến. Nhóm của Gioan và Pharisiêu chủ trương ăn chay để chờ đợi Đấng Messia. Môn đệ của Chúa thì không ăn chay… Còn nhiều nhóm khác nữa như Nhóm Herodê, Sađốc, Sanisiên… Mỗi nhóm có đường lối và triết lý riêng. Càng nhiều nhóm thì tính phân tán càng cao chứ không diễn tả tính phong phú của tôn giáo.
Chúa Giêsu trả lời chất vấn của nhóm Gioan cách rõ ràng. Thời nay là thời của vui mừng, như khách đang dự tiệc cưới. Không thể than khóc khi tiệc cưới đã sẵn sàng. Chúa đang ở giữa họ, Người là chàng rể của tiệc cưới mà Thiên Chúa dọn cho dân của Người. Nên hãy vui mừng vì sự rộng lượng mà Thiên Chúa thếch đãi dân của Ngài.
Lạy Chúa, trong những ngày chay Thánh này, xin cho con sống tâm tình sám hối, nhưng với sự hân hoan, vì biết rằng Chúa luôn rộng lòng thương xót chúng con. Amen.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
SUY NIỆM 2
- Luật ăn chay
Người
ta chất vấn Đức Giêsu về việc ăn chay, vì ăn chay là một trong những
việc đạo đức căn bản (cùng với cầu nguyện và bố thí, được nêu trong bài
Tin Mừng của Lễ Tro, Mt 6, 1-6.16-18), không chỉ trong Do Thái giáo,
nhưng trong mọi tôn giáo, trong đó có Kitô giáo của chúng ta.
Nhưng
dường như, đối với chúng ta, những Kitô hữu, trong thực tế ăn chay là
một “chuyện nhỏ”, bởi vì chúng ta bị buộc ăn chay một năm có hai lần,
thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh (Giáo Luật, điều 1252); dĩ
nhiên, người ta có thể ăn chay vào những ngày khác, chẳng hạn theo
truyền thống của Giáo Hội, vào thứ sáu hằng tuần và trong suốt Mùa Chay,
nhưng Giáo Luật không bắt buộc.
Nhưng,
trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, việc ăn chay là một chuyện
lớn, lớn đối với các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Pharisêu:
họ ăn chay; và họ không chỉ giữ chay, nhưng còn quan tâm đến người khác
có giữ chay không; họ quan tâm đến việc giữ chay của các môn đệ Đức
Giêsu, và qua đó việc giữ chay của chính Đức Giêsu. Các môn đệ của ông
Gioan Tẩy Giả, và theo Tin Mừng Mác-cô, có thêm các môn đệ của người
Pharisiêu nữa, đến hỏi Đức Giêsu:
Tại sao chúng tôi và những người Pharisiêu ăn chay, còn môn đệ của ông lại không ăn chay?
(c. 14)
Và
đối với Đức Giêsu, ăn chay cũng không hề là một chuyện nhỏ, bởi vì, với
một câu hỏi thật ngắn, Ngài trả lời thật dài, với ba dụ ngôn liên tiếp
(c. 16-17): dụ ngôn tiệc cưới, trực tiếp liên quan đến câu hỏi, và hai
dụ ngôn nữa, được biết đến nhiều hơn, mở rộng vấn đề ăn chay: dụ ngôn
“vải và áo” và dụ ngôn “rượu và bình rượu”. Hai dụ ngôn này mời gọi
chúng ta hiểu ra rằng, với Đức Ki-tô, từ nay không chỉ tương quan của
chúng ta với lương thực, được diễn tả qua việc ăn chay, nhưng tương quan
của chúng ta với mọi sự, phải xuất phát từ Đức Ki-tô, đặt nền trên Đức
Ki-tô và hướng về Đức Ki-tô.
- Mục đích của chay tịnh
Trong
thực tế, việc ăn chay có thể có nhiều định hướng: hướng về bản thân,
hay hướng về người khác, hoặc cả hai. Chẳng hạn, ăn chay là một cách khổ
chế, một đàng vì sự “no đầy” thể xác dễ bị chi phối bởi những năng động
lệch lạc; đàng khác, có những thứ lương thực có năng lực kích thích
những tư tưởng, cảm xúc và hành vi xấu, nếu sử dụng không điều độ.
Trong
Do Thái giáo, người ta ăn chay để ăn năn và xin ơn tha thứ, hay để xin
một ơn đặc biệt nào đó (x. 2Sm 13, 16.22; Ge 2, 12-17). Người ta ăn chay
còn để chuẩn bị thi hành một sứ mạng (x. Tl 20, 26; Cv 14, 23). Ngoài
ra, trong sách ngôn sứ Isaia (x. Is 58, 1-9a), Đức Chúa mời gọi dân của
Ngài phải sống hài hòa giữa việc ăn chay và cách sống của họ với tha
nhân và nhất là với những người nghèo đói, những người đau khổ.
Ngày
nay, người ta ăn chay còn để tiết kiệm tiền, dành cho việc bác ái.
Ngoài ra, người ta ăn chay còn để chữa bệnh, gìn giữ sức khỏe hay bảo vệ
môi trường!
* * *
Như
thế, việc ăn chay hoặc có định hướng qui về mình hay qui về người khác,
hoặc là một việc đạo đức chỉ có dáng vẻ bề ngoài, như quan niệm của
những người đến chất vấn Đức Giê-su: “Tại sao chúng tôi và những người
Pharisiêu ăn chay, còn môn đệ của ông lại không ăn chay?”; và như chính
Đức Giê-su đã cảnh báo: “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như
bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là
chúng ăn chay” (Mt 6, 16).
Trong khi
đó, ăn chay tiên vàn có mục đích hướng về chính Thiên Chúa, hoặc để
chuẩn bị mình để gặp gỡ Thiên Chúa (x. Xh 34, 28; Đn 9, 3), hoặc để diễn
tả tương quan thuộc về Thiên Chúa (x. Lv 16, 29-31). Chính vì thế, Đức
Giê-su không hủy bỏ việc ăn chay, nhưng Ngài “hoàn tất” ý nghĩa việc ăn
chay, bằng cách hướng việc ăn chay đến chính ngôi vị của Ngài, bởi vì
Ngài là hiện thân của chính Thiên Chúa. Như thế, Đức Giê-su đã mang lại
cho việc ăn chay một ý nghĩa hoàn toàn mới.
* * *
Ăn
chay, đối với Đức Giêsu, không phải là một việc bổn phận đạo đức, có
tính ép buộc và thường hay qui về mình (hãm mình, đền tội, xin ơn…),
nhưng là một hành vi hướng về “Một Người”, tưởng niệm “Một Người”, Người
đó là “Chàng Rể bị đem đi”, là Đức Kitô chịu thương khó. Chúng ta ăn
chay là để tưởng nhớ Đức Kitô chịu đóng đinh vì lòng mến và hướng tới
lòng mến Đức Ki-tô. Có thể nói, vì “Thương Một Người”[1] mà chúng ta ăn chay.
Nếu
Đức Chúa, trong sách ngôn sứ Isaia, mời gọi dân hướng việc ăn chay đến
tình thương đối với những người nghèo khó và đau khổ, thì Đức Giê-su,
trong bài Tin Mừng, hướng việc ăn chay đến tình thương đối với chính
Ngài. Không phải Ngài bỏ quên họ, nhưng chính khi chúng ta yêu mến Ngài,
chúng ta sẽ yêu mến những người nghèo khó và đau khổ, bởi vì Ngài đồng
hóa mình với họ (x. Mt 25, 40). Như thế, vì lòng mến Đức Ki-tô, chúng ta
được mời gọi không chỉ ăn chay theo luật định, nhưng còn có thể ăn chay
bất cứ lúc nào, nhất là trong Mùa Chay, hay trong tuần tĩnh tâm. Tuy
nhiên, Ngài đã Phục Sinh và hiện diện giữa chúng ta mọi ngày. Vì thế,
chúng ta cũng ăn uống bình thường và đôi khi ăn tiệc nữa!
- Vải mới và áo cũ, rượu mới và bình cũ
Và
với hai dụ ngôn, dụ ngôn “vải và áo” và dụ ngôn “rượu và bình rượu”,
Đức Giê-su mời gọi chúng ta hướng việc ăn uống, và ngang qua việc ăn
uống là “mọi sự khác”, trong đó có chính sự sống của chúng ta, cuộc đời
của chúng ta, tới ngôi vị của Ngài, tới tình yêu Ngài dành cho chúng ta
và chúng ta dành cho Ngài. Bởi vì, lương thực còn là biểu tượng của sự
sống. Vì thế, chúng ta có thể hiểu, đời sống dâng hiến của chúng ta là
một việc “Ăn Chay” lớn nhất, ngang qua nỗ lực sống ba lời khấn, khó
nghèo, khiết tịnh và vâng phục, vốn liên quan đến sự sống và là chính sự
sống của chúng ta; và chúng ta ăn chay kiểu “lạ đời” này, vì lòng mến
Đức Kitô và để sống và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài và cho Nước của
Thiên Chúa.
Như thế, việc ăn chay của
chúng ta chỉ trở nên đích thật trong mức độ, đó là cách chúng ta diễn
tả tương quan tình yêu của chúng ta đối với chính Chúa. Nhưng nếu Chúa
hiện diện ngay trong “bánh” chúng ta dùng hằng ngày, thì việc ăn chay
của chúng ta sẽ ra sao?
Thật là lệch
lạc, khi coi lương thực như “dịp tội” phải kiêng bớt, thậm chí xa tránh.
Bởi lẽ, lương thực là ơn huệ Thiên Chúa ban (x. St 1-2; Đnl 8, 3): Chúa
hiện diện nơi ơn huệ của Người, và khi hưởng dùng ơn huệ (nghĩa là
nhìn, nghe, cảm, nếm và đụng), cụ thể là ơn huệ lương thực hằng ngày,
chúng ta được mời gọi nhận ra và đi vào tương quan biết ơn với Đấng ban
ơn huệ:
Người ban lương thực (tiếng Do-thái: bánh) cho tất cả chúng sinh.
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
(Tv 136, 25)
Và
bánh ăn hằng ngày, vốn là ơn huệ của Thiên Chúa loan báo cho chúng ta
Bánh Trường Sinh, Bánh ban sự sống đời đời là chính Đức Ki-tô, và Người
là Ơn Huệ của mọi ơn huệ (x. Ga 4, 10 và Ga 6). Chính vì thế, Giáo Hội
cho chúng ta đọc kinh Lạy Cha, trong đó có lời cầu: “xin cho chúng con
lương thực hàng ngày”, trước khi đón nhận Mình Máu Thánh Đức Ki-tô.
Vậy,
ăn chay đích thật không chỉ là không ăn hay ăn ít đi một số lần hay một
số ngày vì lòng mến Chúa; nhưng còn là mọi ngày, chúng ta được mời đón
nhận lương thực như ơn huệ Thiên Chúa ban và chúng ta để cho ơn huệ
lương thực hằng ngày hướng chúng ta đến Ơn Huệ Lương Thực hằng sống là
chính Đức Ki-tô.
* * *
Chúng
ta cầu nguyện với Thiên Chúa, Cha của chúng ta mỗi ngày, và nhất là
trước bữa ăn: “Lạy Cha, xin ban cho chúng con lương thực hằng ngày”; và
quả thực, ơn huệ lương thực đã có đó ngay trên bàn trước mắt chúng ta
rồi. Vì thế, lời nguyện này về ngôn từ là lời cầu xin, nhưng về tâm
tình, là lời tạ ơn và ca tụng. Và bởi vì lương thực hằng ngày là ơn ban,
nên sự sống của chúng ta, ở mức độ căn bản nhất là đến từ Chúa và là
của Chúa.
Và điều Chúa chờ đợi nơi
chúng ta, là một lời nguyện phát xuất từ con tim biết ơn và dâng hiến:
“Chúa đã ban cho con tất cả, con xin dâng lại Chúa tất cả”, trong tâm
tình ca tụng, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa”, theo khuôn mẫu của Đức
Ki-tô Thánh Thể.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
[1] “Thương Một Người”, tựa đề bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.