HUANCHACO. Sáng ngày 20-1-2018, 400 ngàn tín hữu ở miền bắc Peru đã tham dự thánh lễ với ĐTC tại Huanchaco và ngài kêu gọi chống lại các thứ ”bão tố” trong cuộc sống.
Sáng thứ bảy (20-1), ĐTC đã rời thủ đô Lima bay đến thành phố Trujillo cách đó 500 cây số về hướng tây bắc, để tiếp tục chương trình thăm viếng Peru.
Trujillo hiện có 800 ngàn dân cư, ở bờ biển phía bắc của Peru, một thành phố du lịch nổi tiếng, quen được gọi là ”Thành mùa xuân vĩnh cửu”. Thành có trung tâm lịch sử rất đẹp, từ thời thuộc địa và có những di tích khảo cổ tiền Tây Ban Nha, với những vết tích về những nền văn hóa cổ kính trước thời thổ dân Inca, như văn hóa của người Mochica và Chim. Về phương diện tôn giáo, Trujillo là một tổng giáo phận có gần 1 triệu 300 ngàn tín hữu Công Giáo, do Đức TGM Héctor Cabrejos dòng Phanxicô coi sóc, với 75 xứ đạo, do 86 linh mục giáo phận đảm trách. Ơn gọi khan hiếm, năm ngoái chỉ có 1 tân linh mục.
Đến phi trường Trujillo vào lúc quá 9 giờ, ĐTC đã dùng xe đi thêm 4 cây số đến thành phố cổ kính Huanchaco ở phía bắc để cử hành thánh lễ cho các tín hữu tại khu vực sát bờ biển. Tại đây vào lúc 10 giờ sáng, trước sự hiện diện của 400 ngàn tín hữu, ngài đã chủ sự thánh lễ kính Đức Mẹ Maria là Cửa Trời.
Đồng tế với ĐTC có đông đảo các GM và LM thuộc 11 giáo phận miền bắc Peru.
Bài giảng thánh lễ
Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đặc biệt chào thăm các tín hữu hiện diện, không những từ địa phương nhưng còn từ nhiều nơi ở miền bắc Peru để cử hành niềm vui Tin Mừng này.
Ngài nhắc đến thiên tai ”Nino” hồi năm ngoái xảy ra tại vùng này với những hậu quả đau thương vẫn còn đè nặng trên bao nhiêu gia đình, nhất là những người chưa thể tái thiết gia cư của mình. Dựa vào bài Tin Mừng về dụ ngôn 5 trinh nữ có mang dầu theo, trong khi 5 trinh nữ khác không mang dầu, và ngài rút ra bài học cho đời sống thực tế. ĐTC nói: ”Tôi biết rằng, trong lúc tối tăm, khi anh chị em cảm thấy cuồng phong bão tố Nino, miền đất này đã biết động viên và đã có dầu để giúp đỡ nhau như những anh chị em đích thực. Đó là dầu liên đới, dầu quảng đại mà anh chị em đã động viên và đã đi gặp Chúa với bao nhiêu cử chỉ giúp đỡ cụ thể. Giữa tăm tối, cùng với bao nhiêu người khác, anh chị em đã trở thÀnh những ngọn đuốc sống động và soi sáng con đường với đôi tay mở rộng, sẵn sáng để thoa dịu đau khổ và chia sẻ với những anh chị em trong cảnh nghèo.
ĐTC cũng mời gọi các tín hữu hãy tỉnh thức và sẵn sàng và nói rằng: ”Có những điều không thể bất chợt sáng tác, và càng không thể mua được. Cái hồn của một cộng đoàn được đo lường theo mức độ họ có thành công trong việc đoàn kết với nhau để đương đầu với những lúc khó khăn, nghịch cảnh hay không, để duy trì niềm hy vọng sinh động. Với thái độ này, anh chị em làm chứng mạnh mẽ theo tinh thần Tin Mừng: ”Cứ dấu này mà người ta biết các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13.35). Vì đức tin mở cho chúng ta có được một tình yêu cụ thể, bằng công việc, bằng đôi tay giơ ra, cảm thương, biết kiến tạo và tái tạo niềm hy vọng khi mà tất cả dường như bị mất mát”.
Trong bài giảng, ĐTC cũng nói đến những bão tố khác có thể dập vùi bờ biển này, và trong đời sống của người dân tại đây, chúng có thể gây ra tàn phá. Ngài nói: “Những bão tố cũng đặt câu hỏi cho chúng ta trong tư cách là cộng đoàn và thử thách giá trị tinh thần chúng ta. Bão tố đó được gọi là nạn tội phạm có tổ chức, như một tổ chức giết mướn, ”thích khách” và tình trạng bất an mà nó tạo ra; sự thiếu cơ may giáo dục và công ăn việc làm, nhất là nơi những ngừơi trẻ, khiến họ không kiến tạo được một tương lai xứng đáng, thiếu nhà ở chắc chắn cho bao nhiêu gia đình buộc phải sống trong những vùng bất bất an và không có những lối vào chắc chắn; và bao nhiêu tình trạng khác mà anh chị em biết rõ và chịu đau khổ vì chúng, giống như nạn lụt trầm trọng làm rúng động sự tín nhiệm nhau, sự tín nhiệm rất cần thiết để xây dựng một mạng nâng đỡ và hy vọng. Những trận lụt phủ ngập tâm hồn và đòi chúng ta phải có dầu để đương đầu với chúng.
ĐTC nhận xét rằng ”nhiều lần chúng ta đặt câu hỏi làm sao đương đầu được với những bão tố ấy, làm sao giúp con cái chúng ta vượt thắng những tình trạng như vậy? Tôi muốn nói với anh chị em: không có một lối thoát nào tốt đẹp hơn lối thoát của Tin Mừng, và lối thoát ấy tên là Đức Giêsu Kitô. Anh chị em hãy luôn làm cho cuộc sống được tràn đầy Tin Mừng. Tôi muốn nhắn nhủ anh chị em hãy trở thành một cộng đoàn để cho Chúa xức bằng cầu Thánh Linh, Chúa biến đổi mọi sự, canh tân mọi sự, an ủi tất cả. Trong Chúa Giêsu, chúng ta có sức mạnh của Thánh Linh để không chấp nhận những gì gây hại cho chúng ta như điều bình thường, những gì làm cho tinh thần chúng ta khô cằn, và tệ hơn nữa nó cướp mất hy vọng của chúng ta”.
Sau thánh lễ tại Huanchaco, ĐTC còn đến khu vực Buenos Aires cách đó 13 cây số để viếng thăm dân chúng tại nơi bị lụt hồi tháng 4 năm ngoái vì hiện tượng thay đổi khí hậu, el nino, khiến cho hàng trăm ngàn người không còn nhà cửa, đường phố đầy bùn, nghĩa trang bị cuốn mất các ngôi mộ, hơn 150 người chết. Sau đó ngài về tòa TGM Trujillo để dùng bữa trưa.
Sáng thứ bảy (20-1), ĐTC đã rời thủ đô Lima bay đến thành phố Trujillo cách đó 500 cây số về hướng tây bắc, để tiếp tục chương trình thăm viếng Peru.
Đến phi trường Trujillo vào lúc quá 9 giờ, ĐTC đã dùng xe đi thêm 4 cây số đến thành phố cổ kính Huanchaco ở phía bắc để cử hành thánh lễ cho các tín hữu tại khu vực sát bờ biển. Tại đây vào lúc 10 giờ sáng, trước sự hiện diện của 400 ngàn tín hữu, ngài đã chủ sự thánh lễ kính Đức Mẹ Maria là Cửa Trời.
Đồng tế với ĐTC có đông đảo các GM và LM thuộc 11 giáo phận miền bắc Peru.
Bài giảng thánh lễ
Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đặc biệt chào thăm các tín hữu hiện diện, không những từ địa phương nhưng còn từ nhiều nơi ở miền bắc Peru để cử hành niềm vui Tin Mừng này.
Ngài nhắc đến thiên tai ”Nino” hồi năm ngoái xảy ra tại vùng này với những hậu quả đau thương vẫn còn đè nặng trên bao nhiêu gia đình, nhất là những người chưa thể tái thiết gia cư của mình. Dựa vào bài Tin Mừng về dụ ngôn 5 trinh nữ có mang dầu theo, trong khi 5 trinh nữ khác không mang dầu, và ngài rút ra bài học cho đời sống thực tế. ĐTC nói: ”Tôi biết rằng, trong lúc tối tăm, khi anh chị em cảm thấy cuồng phong bão tố Nino, miền đất này đã biết động viên và đã có dầu để giúp đỡ nhau như những anh chị em đích thực. Đó là dầu liên đới, dầu quảng đại mà anh chị em đã động viên và đã đi gặp Chúa với bao nhiêu cử chỉ giúp đỡ cụ thể. Giữa tăm tối, cùng với bao nhiêu người khác, anh chị em đã trở thÀnh những ngọn đuốc sống động và soi sáng con đường với đôi tay mở rộng, sẵn sáng để thoa dịu đau khổ và chia sẻ với những anh chị em trong cảnh nghèo.
ĐTC cũng mời gọi các tín hữu hãy tỉnh thức và sẵn sàng và nói rằng: ”Có những điều không thể bất chợt sáng tác, và càng không thể mua được. Cái hồn của một cộng đoàn được đo lường theo mức độ họ có thành công trong việc đoàn kết với nhau để đương đầu với những lúc khó khăn, nghịch cảnh hay không, để duy trì niềm hy vọng sinh động. Với thái độ này, anh chị em làm chứng mạnh mẽ theo tinh thần Tin Mừng: ”Cứ dấu này mà người ta biết các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13.35). Vì đức tin mở cho chúng ta có được một tình yêu cụ thể, bằng công việc, bằng đôi tay giơ ra, cảm thương, biết kiến tạo và tái tạo niềm hy vọng khi mà tất cả dường như bị mất mát”.
Trong bài giảng, ĐTC cũng nói đến những bão tố khác có thể dập vùi bờ biển này, và trong đời sống của người dân tại đây, chúng có thể gây ra tàn phá. Ngài nói: “Những bão tố cũng đặt câu hỏi cho chúng ta trong tư cách là cộng đoàn và thử thách giá trị tinh thần chúng ta. Bão tố đó được gọi là nạn tội phạm có tổ chức, như một tổ chức giết mướn, ”thích khách” và tình trạng bất an mà nó tạo ra; sự thiếu cơ may giáo dục và công ăn việc làm, nhất là nơi những ngừơi trẻ, khiến họ không kiến tạo được một tương lai xứng đáng, thiếu nhà ở chắc chắn cho bao nhiêu gia đình buộc phải sống trong những vùng bất bất an và không có những lối vào chắc chắn; và bao nhiêu tình trạng khác mà anh chị em biết rõ và chịu đau khổ vì chúng, giống như nạn lụt trầm trọng làm rúng động sự tín nhiệm nhau, sự tín nhiệm rất cần thiết để xây dựng một mạng nâng đỡ và hy vọng. Những trận lụt phủ ngập tâm hồn và đòi chúng ta phải có dầu để đương đầu với chúng.
ĐTC nhận xét rằng ”nhiều lần chúng ta đặt câu hỏi làm sao đương đầu được với những bão tố ấy, làm sao giúp con cái chúng ta vượt thắng những tình trạng như vậy? Tôi muốn nói với anh chị em: không có một lối thoát nào tốt đẹp hơn lối thoát của Tin Mừng, và lối thoát ấy tên là Đức Giêsu Kitô. Anh chị em hãy luôn làm cho cuộc sống được tràn đầy Tin Mừng. Tôi muốn nhắn nhủ anh chị em hãy trở thành một cộng đoàn để cho Chúa xức bằng cầu Thánh Linh, Chúa biến đổi mọi sự, canh tân mọi sự, an ủi tất cả. Trong Chúa Giêsu, chúng ta có sức mạnh của Thánh Linh để không chấp nhận những gì gây hại cho chúng ta như điều bình thường, những gì làm cho tinh thần chúng ta khô cằn, và tệ hơn nữa nó cướp mất hy vọng của chúng ta”.
Sau thánh lễ tại Huanchaco, ĐTC còn đến khu vực Buenos Aires cách đó 13 cây số để viếng thăm dân chúng tại nơi bị lụt hồi tháng 4 năm ngoái vì hiện tượng thay đổi khí hậu, el nino, khiến cho hàng trăm ngàn người không còn nhà cửa, đường phố đầy bùn, nghĩa trang bị cuốn mất các ngôi mộ, hơn 150 người chết. Sau đó ngài về tòa TGM Trujillo để dùng bữa trưa.
Ban sáng, Ðức Thánh Cha chủ sự kinh giờ nhỏ vào lúc 9h15 với các nữ tu chiêm niệm ở Ðền Thánh Chúa làm phép lạ.
Lúc 10h30, Đức Thánh Cha kính viếng hài cốt các thánh người Peru tại nhà thờ chính tòa Lima, rồi ngài gặp gỡ các Giám Mục Chí Lợi tại tòa Tổng Giám Mục địa phương, trước khi chủ sự kinh Truyền Tin lúc 12h với các tín hữu.
Trong diễn từ với các Giám Mục, Đức Thánh Cha nói:
Các hiền huynh Giám Mục thân mến,
Tôi cám ơn những lời tốt đẹp Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Lima và cũng là Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục gởi đến tôi đại diện cho tất cả các hiền huynh hiện diện nơi đây. Tôi đã mong đợi được ở đây với các hiền huynh. Tôi nhớ lại với niềm vui chuyến thăm ad-limina năm ngoái của các hiền huynh.
Những ngày tôi trải qua với các hiền huynh thật rất là nồng nhiệt và đáng hài lòng. Tôi đã có thể học hỏi và trải nghiệm những thực tại khác nhau hình thành nên những vùng đất này và có thể chia sẻ tận mắt niềm tin của người dân thánh thiện và trung thành của Chúa, điều đó làm cho chúng ta phấn chấn. Cảm ơn các hiền huynh đã cho tôi cơ hội “đụng chạm” đến niềm tin của dân Chúa đã được giao phó cho các hiền huynh.
Chủ đề của chuyến tông du này nói với chúng ta về sự hiệp nhất và hy vọng. Đây là một chương trình đầy thách thức nhưng thú vị, làm chúng ta nghĩ đến những thành quả anh hùng của Thánh Turibius thành Mogrovejo, từng là Tổng Giám Mục của Tòa này và cũng là quan thầy của các giám mục Mỹ Latinh, đó là một gương sáng của một “người xây dựng tình hiệp nhất giáo hội”, như người tiền nhiệm của tôi, là Thánh Gioan Phaolô II đã mô tả về ngài trong lần tông du đầu tiên đến vùng đất này. [1]
Điều đáng nói là vị thánh quan thầy này thường được mô tả như một “Môsê mới”. Như các hiền huynh đã biết, Vatican có một bức tranh trong đó Thánh Turibius đang vượt qua một con sông lớn, và nước mở ra trước mắt ngài như Biển Đỏ, để ngài có thể đi đến bờ bên kia, nơi một nhóm người bản địa đang chờ đợi ngài. Đằng sau Thánh Turibius là một đoàn lũ đông đảo, đại diện cho dân trung tín, những người đi theo vị mục tử của họ trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng. [2] Hình ảnh đẹp này có thể đóng vai trò là một chiếc neo trong suy tư của tôi với các hiền huynh. Thánh Turibius, là người đàn ông muốn đến bờ bên kia.
Chúng ta quan sát ngài từ lúc ngài chấp nhận nhiệm vụ đến vùng đất này với sứ mệnh là một người cha và một mục tử. Ngài bỏ lại sau lưng sự an toàn của môi trường quen thuộc xung quanh để bước vào một vũ trụ hoàn toàn mới, chưa biết và đầy những thách thức. Ngài đã tiến đến một vùng đất hứa được hướng dẫn bởi đức tin như một “bảo chứng cho những điều mong đợi” (Dt 11: 1). Niềm tin của ngài và lòng trông cậy của ngài vào Chúa đã thúc đẩy ngài, và suốt cả cuộc đời còn lại của ngài, để sang bờ bên kia, nơi chính Chúa đang đợi ngài ở giữa đám đông.
1. Ngài muốn đến bờ bên kia để tìm kiếm người xa đàn chiên và lạc lối. Để làm như vậy, ngài phải để lại đằng sau sự thoải mái của tòa giám mục và dọc ngang trên lãnh thổ được ủy thác cho ngài trong các chuyến viếng thăm mục vụ liên tục; ngài đã cố gắng đến thăm bất cứ nơi nào cần đến ngài, và họ cần ngài biết ngần nào! Ngài ra ngoài để gặp gỡ mọi người, theo những con đường mà theo lời người thư ký của ngài, được dành cho dê hơn là cho người. Thánh Turibius đã phải đối mặt với những thay đổi rất nhiều về khí hậu và địa hình, “trong hai mươi hai năm giám mục của ngài, 18 năm ngài đã trải qua bên ngoài thành phố, ba năm lang thang suốt dọc dài lãnh thổ của mình” [3] Ngài biết rằng đây là cách duy nhất để trở thành một mục tử: đó là gần gũi với đàn chiên của mình, ban phát các phép bí tích, và ngài thường xuyên khích lệ các linh mục mình làm như vậy. Ngài đã làm như thế không chỉ bằng lời nói mà còn bằng chứng tá của ngài trên tuyến đầu của việc loan báo Tin Mừng. Theo kiểu ngày nay, ta sẽ gọi ngài là một giám mục “đường phố”. Một giám mục có đôi giày mòn lẳng vì lang thang, di hành liên tục, tiến ra để “rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi người: mọi nơi, mọi lúc, không do dự, miễn cưỡng; vì niềm vui của Phúc Âm là dành cho mọi người: không ai có thể bị loại trừ”. [4]. Thánh Turibius biết rõ điều này biết là ngần nào! Không sợ hãi và không do dự, ngài đắm mình trong lục địa của chúng ta để loan báo tin vui.
2. Ngài muốn đến bờ bên kia không chỉ về mặt địa lý mà còn về mặt văn hoá. Thành thử, ngài đã cố gắng bằng nhiều cách khác nhau để có thể truyền bá Tin Mừng bằng ngôn ngữ bản địa. Với Công Đồng Thứ Ba của Lima, ngài đã chuẩn bị để các sách giáo lý được biên soạn và dịch sang tiếng Quechua và Aymara. Ngài khuyến khích hàng giáo phẩm học ngôn ngữ của đàn chiên của họ để có thể ban phát các bí tích cho họ theo một cách thức mà họ có thể hiểu được. Khi thăm và sống với dân mình, ngài nhận ra rằng hiện diện về thể chất thôi thì chưa đủ, nhưng còn phải học cách nói ngôn ngữ của người khác, chỉ bằng cách này Phúc Âm mới có thể được hiểu và làm rung động được những con tim. Tầm nhìn này cần thiết cho chúng ta, là những mục tử của thế kỷ 21 này, biết bao! Chúng ta cần phải học những ngôn ngữ hoàn toàn mới chẳng hạn như những ngôn ngữ thời kỹ thuật số để hiểu được ngôn ngữ thực sự của những người trẻ, gia đình, và con cái chúng ta... Như Thánh Turibius đã nhận ra một cách rõ ràng, có mặt và chiếm một khoảng không gian thôi thì không đủ; chúng ta phải có khả năng tạo ra các quy trình trong cuộc sống của người dân để đức tin của họ có thể bắt rễ và có ý nghĩa đối với họ. Và để làm điều đó, chúng ta phải có thể nói được ngôn ngữ của họ. Chúng ta cần phải đến những nơi có những câu chuyện và mô hình mới đang được nảy sinh để mang lời Chúa Giêsu đến tận trung tâm của các thành phố và các dân tộc của chúng ta. [5] Phúc âm hóa văn hoá đòi hỏi chúng ta phải đi vào trái tim của chính nền văn hoá đó để nó có thể được chiếu sáng từ bên trong bởi Tin Mừng.
3. Thánh Turibius muốn đến bờ bên kia của lòng bác ái. Đối với vị quan thầy của chúng ta, không thể có phúc âm hóa mà không có những công việc bác ái. Ngài biết rằng hình thức phúc âm hóa tối cao nhất chính là mô hình hóa sự tự hiến của Chúa Giêsu Kitô nơi chính cuộc sống của chúng ta, vì tình yêu đối với mọi người nam nữ. Cứ dấu này người ta nhận ra đâu là con cái Thiên Chúa và đâu là con cái của ma quỷ: tất cả những ai không thực hành công lý thì không đến từ Thiên Chúa, và những người không yêu mến anh chị em của mình cũng không đến từ Thiên Chúa (xem 1Ga 3:10). Trong những lần thăm viếng của mình, ngài đã có thể nhìn thấy những lạm dụng và gánh nặng mà các dân tộc đã phải chịu đựng, và vì thế vào năm 1585, không chút sợ hãi, ngài đã ra vạ tuyệt thông cho quận công Corregidor miền Cajatambo, đặt mình vào vị thế chống lại toàn bộ hệ thống tham nhũng và một mạng lưới lợi nhuận, “thu hút về phía mình sự thù hằn của bao nhiêu người”, bao gồm cả viên Thái Thú [6]. Như vậy, chúng ta thấy, người mục tử phải biết rằng lợi ích siêu nhiên không bao giờ có thể được tách rời khỏi những thiện ích vật chất, và đặc biệt là khi sự liêm chính và phẩm giá của con người gặp nguy cơ. Tính chất tiên tri trong tinh thần của một giám mục phải là: không sợ tố cáo những lạm dụng và dã man đối với dân của chúng ta. Bằng cách này, Thánh Turibius nhắc nhở toàn thể xã hội, và mỗi cộng đồng, rằng lòng bác ái phải luôn đi kèm với công lý. Và rằng không thể có một cuộc phúc âm hoá chân chính mà không chỉ ra và tố cáo mọi tội lỗi chống lại cuộc sống của anh chị em của chúng ta, đặc biệt là những người rốt nhất
4. Ngài muốn đến bờ bên kia trong việc đào tạo các linh mục của mình. Ngài thành lập chủng viện đầu tiên sau Công Đồng Tridentinô ở phần đất này của thế giới, nhờ đó ngài đẩy mạnh việc đào tạo các giáo sĩ địa phương. Ngài nhận ra rằng viếng thăm mọi nơi và nói cùng ngôn ngữ với người dân cũng chưa đủ đâu: Giáo Hội cần phải nuôi nấng những mục tử địa phương của mình và trở nên một người mẹ hiền. Để đạt được mục đích này, ngài bảo vệ việc truyền chức linh mục cho những thổ dân – là một vấn đề gây tranh cãi vào thời điểm đó - và tìm cách làm cho người khác thấy rằng nếu cần phải có sự đa dạng trong hàng giáo sĩ ở mọi khu vực, thì sự đa dạng ấy phải dựa trên sự thánh thiện chứ không phải là nguồn gốc chủng tộc của họ [7]. Việc đào tạo này không chỉ dừng lại ở khuôn viên các chủng viện mà còn được tiếp tục qua những chuyến viếng thăm liên tục của ngài. Ở đó, ngài có thể nhìn thấy “tình trạng của các linh mục của mình” và bày tỏ sự quan tâm của ngài đối với họ. Chuyện kể rằng vào đêm Giáng sinh, em gái ngài tặng cho ngài một chiếc áo sơ mi để ngài có thể mặc trong dịp lễ. Cùng ngày đó, ngài đi thăm một linh mục, và nhìn thấy điều kiện sống của vị linh mục ấy, ngài cởi ngay chiếc áo sơ mi mới tinh và tặng cho vị này. [8] Ngài là mục tử biết đàn chiên của mình. Một mục tử cố gắng thăm họ, đồng hành với họ, khuyến khích họ và khuyên bảo họ. Ngài nhắc nhở các linh mục của mình rằng họ là các mục tử, chứ không phải người bán hàng, và vì vậy họ phải chăm sóc và bảo vệ người dân như con cái mình [9]. Tuy nhiên, ngài đã không làm điều này từ bàn làm việc, và vì thế ngài biết những con chiên của mình và họ cũng nhận ra giọng nói của vị mục tử của họ.
5. Ngài muốn đến bờ bên kia của sự hiệp nhất. Trong một cách đáng khâm phục và đầy tính tiên tri, ngài hoạt động để mở ra khả năng hiệp thông và dự phần giữa các thành viên khác nhau của dân Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã nhắc đến điều này khi nói chuyện với các giám mục ở vùng đất này. Ngài lưu ý rằng: “Công Đồng thứ ba của Lima là kết quả của nỗ lực do Thánh Turibius hướng dẫn, khuyến khích và chỉ đạo; nó đem lại kết quả là một sự phong phú tình hiệp nhất trong đức tin, các tiêu chuẩn mục vụ và tổ chức, và những hiểu biết hữu ích cho sự hội nhập hằng được mong muốn của Mỹ Latinh “[10]. Chúng ta biết rất rõ rằng tình hiệp nhất và sự đồng thuận này đã ngoi lên được từ những căng thẳng và xung đột. Chúng ta không thể phủ nhận những căng thẳng và khác biệt; cuộc sống không thể không có xung đột. Tuy nhiên, chúng đòi hỏi chúng ta, nếu chúng ta là những người đàn ông và những Kitô hữu, phải dám đối mặt với chúng và đối phó với chúng. Nhưng phải đối phó với chúng trong tinh thần liên đới, đối thoại chân thành và thẳng thắn, mặt đối mặt, cẩn thận để không bị cám dỗ để lờ đi quá khứ, hoặc giam hãm mình trong quá khứ, thiếu tầm nhìn để có thể phân định được đâu là những nẻo đường hiệp nhất và hòa bình. Một nguồn động viên, trong cuộc hành trình của chúng ta như là một Hội Đồng Giám Mục, đó là biết rằng sự hiệp nhất sẽ luôn luôn chiếm ưu thế hơn [11] Các hiền huynh thân mến, hãy hoạt động cho tình hiệp nhất. Không nên cứ mãi là những tù nhân của những chia rẽ đang tạo ra những bè phái và cản trở ơn gọi của chúng ta là trở nên một bí tích hiệp thông. Hãy nhớ rằng: điều thu hút của Giáo Hội tiên khởi chính là các Kitô hữu yêu thương nhau. Đó là - và luôn luôn là - cách tốt nhất để loan báo Tin Mừng.
6. Đã đến lúc Thánh Turibius lên bờ cuối cùng, đến vùng đất mà ngài đã nhiều lần nếm trước trên tất cả các bờ biển mà ngài đã bỏ lại sau lưng. Lần này, tuy nhiên, ngài không cô đơn. Như trong bức tranh mà tôi đã đề cập trước đây, ngài đã đi gặp các thánh bao quanh bởi một đoàn lũ thật đông đảo. Ngài là một mục tử chất đầy “túi xách của mình” với những tên và khuôn mặt. Họ là hộ chiếu của ngài để lên trời. Tôi không muốn vượt qua giai điệu cuối cùng này, là thời điểm khi vị mục tử trao phó linh hồn mình cho Chúa. Ngài đã ra đi giữa dân mình, và một người bản xứ đã hát một bài hát bằng chiếc tù và của mình để linh hồn người mục tử của anh cảm thấy bình an. Các anh em, xin cho khi chúng ta thực hiện cuộc hành trình cuối cùng này của mình, chúng ta cũng có thể có cùng trải nghiệm này. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta điều này [12]
Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi.
[1] Diễn từ trước các Giám mục Peru (2 tháng 2 năm 1985), đoạn 3.
[2] x. Phép lạ của Thánh Turibius, Vatican Pinacoteca.
[3] Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, Bài giảng Thánh Lễ, Aparecida (16 tháng 5 năm 2007).
[4] Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 23.
[5] X. thượng dẫn., 74.
[6] x. Ernesto Rojas Ingunza, El Perú de los Santos, Kathy Perales Ysla (biên soạn), Cinco Santos del Perú. Vida, obra y tiempo, Lima (2016), 57.
[7] x. Joséantonio Benito Rodríguez, Santo Toribio de Mogrovejo, Kathy Perales Ysla (ed.), Cinco Santos del Perú. Vida, obra y tiempo, Lima (2016), 178.
[8] x. thượng dẫn, 180.