ƯU TIÊN SỐNG CẦU NGUYỆN
Sáng sớm lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (Mc 1,35)
Suy niệm: Tin Mừng Mác-cô hôm nay mô tả cuộc sống thường nhật của Chúa Giê-su gồm hai nhịp: hoạt động truyền giáo và cầu nguyện. Dù bận rộn với đủ mọi hạng người đến với mình, nhưng Chúa Giê-su vẫn ưu tiên dành những giây phút quý giá nhất trong ngày để cầu nguyện với Cha. Chính trong tương giao với Cha qua cầu nguyện, Ngài đã nhận ra và chọn sống theo ý Cha. Nhờ chọn lựa này, Ngài không lưu lại một chỗ để “thưởng thức” lòng ham mộ, sự thành công, nhưng rong ruổi nay đây mai đó để nhiều người hơn được biết Tin Mừng Nước Trời. Ngày sống của Ngài được đan dệt bằng hai chất liệu quý giá: tâm tình hiếu thảo với Cha và tấm lòng yêu thương con người.
Mời Bạn: Trong xã hội hiện nay, học sinh bù đầu lo chuyện học, người lớn đầu tắt mặt tối với việc làm ăn, giáo xứ với tổ chức lễ lạc… Dường như “chủ nghĩa duy hoạt động” thắng thế: người ta đặt hiệu quả việc loan báo Tin Mừng nơi hoạt động, qua công việc, chứ không nơi đời sống cầu nguyện. Hậu quả tất yếu là xem nhẹ sức mạnh của việc cầu nguyện. Trong khi đó, cầu nguyện là “hơi thở” của đời sống Ki-tô hữu, “là tiếng kêu của linh hồn” (A. Belden). Qua cầu nguyện, ta gặp gỡ Chúa, nhìn ngắm, xin Ngài tư vấn, để rồi nhờ lắng nghe, ta biết được và chọn làm theo Ý Ngài.
Chia sẻ: Bạn thường cầu nguyện do nhu cầu cần gặp gỡ Chúa hay do muốn xin ơn, cầu lợi?
Sống Lời Chúa: Dành riêng 5 phút mỗi ngày để cầu nguyện với Chúa.
Cầu nguyện: Chúa ơi, xin cho con biết dành thời gian tâm sự với Chúa mỗi ngày. Amen.
THÁNH MAXIANÔ
LINH MỤC
(+ 471)
Đoàn thể những người Chúa chọn để phụng sự Ngài gồm đủ mọi hạng người, thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội khác nhau. Có vị xuất thân là kẻ cùng đinh bần hàn, có người ở chốn cao sang quyền quý, người học thức uyên thâm, kẻ quê mùa chất phác.
Maxianô đại diện giai cấp quý tộc được Chúa chọn. Ngài sinh trưởng trong một gia đình quý phái thuộc hoàng gia Rôma. Nhờ ở địa vị quyền quý đó, Maxianô được gửi qua Contantinôpôli, kinh thành văn hoá của thời đại bấy giờ để ăn học.
Những ngày thơ ấu đó thật là êm đềm hạnh phúc. Thêm vào những kiến thức ở học đường, Maxianô còn được hấp thụ ở gia đình một nền giáo dục rất đạo đức, nền giáo dục đó đã tạo cho Maxianô một tâm hồn quảng đại, thích gần gũi với hết mọi người để bầu bạn, nhất là những con nhà nghèo khó. Lòng bác ái hay thương giúp những con người nghèo khổ đã sớm nở trong tấm lòng thơ ấu đó. Trong khi còn được cha mẹ cung phụng cho ăn học, Maxianô thường dành dụm, hoặc có khi lấy hết những tiền cha mẹ cho để giúp đỡ các bạn nghèo một cách kín đáo. Ngoài những giờ cắp sách đến trường, Maxianô thường ở nhà bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả trong cách sống cô tịch và cầu nguyện.
Càng thêm tuổi, Maxianô càng tấn tới trên đường trọn lành. Thượng phụ Anatôlê nghĩ: "Những gương nhân đức của trang thanh niên đó sẽ gây ảnh hưởng và có hiệu lực nhiều hơn, nếu chàng ở địa vị linh mục". Thế rồi ngài tỏ ý muốn truyền chức linh mục cho Maxianô. Nhưng Maxianô một mực khước từ vì nghĩ rằng mình bất xứng. Đến sau, ngài đành phải gạt bỏ ý riêng để vâng lời vị Thượng giáo phụ. Khi thụ phong, Maxianô thầm hứa với Chúa mỗi ngày sẽ cố gắng vươn cao trên đường hoàn thiện trong cuộc đời linh mục.
Sau khi thụ phong linh mục rồi, với tất cả bầu nhiệt huyết của một linh mục trẻ, Maxianô hăng hái bắt tay vào những hoạt động xã hội như: mở những trung tâm hướng nghiệp cho người nghèo, trợ cấp những người túng thiếu, xây cất nhà thờ, lập bệnh viện. Lòng thương những người nghèo khổ đã chiếm một phần lớn trong trái tim ngài.
Nhưng ta đừng tưởng đời các vị thánh chỉ toàn là những bước đi trên hoa và nhung lụa. Phải phấn đấu gian khổ mới được những giây phút thanh bình quý hoá. Trong cuộc đời hoạt động, linh mục Maxianô đã gặp phải bao trở lực, nào là những tiếng nói ra nói vào, những lời bình phẩm chê trách, những cảnh ghen tương đố kỵ. Thấy ngài được uy thế và tiếng tăm lừng lẫy, nhiều người có bụng xấu đã phải ghen và vu cáo cho ngài là có chân trong lạc giáo Nôvaxianô để chống đối và bất phục quyền Đức Giáo Hoàng. Đối lại, ngài chỉ dùng phương thế yên lặng và xử hiền hoà để phá tan mối ngờ vực oan uổng đó.
Vị Thượng phụ Anatôlê một lần nữa càng nhận thấy Maxianô là người có một đức tính sâu sắc và mạnh mẽ phù hợp với cuộc đời hoạt động bên ngoài, nên ngài rất mến phục và tín nhiệm linh mục Maxianô. Theo ý kiến và lòng mộ mến của toàn dân cũng như hàng giáo sĩ, ngài đã đặt Maxianô làm quản lý giáo phận.
Trong chức vụ mới, những đức tính khôn ngoan, chính trực của linh mục Maxianô càng được phô bầy sáng tỏ. Không ai có thể kêu trách ngài về vấn đề tiền của. Tuy nắm giữ nhiều của cải, nhưng lòng ngài không hề dính bén. Trái lại, ngài biết dùng tiền để làm nhiều công việc hữu ích. Nhờ ngài, nhiều thánh đường nguy nga đã mọc lên như nấm hoặc được trùng tu, như thánh đường thánh nữ Anastasia, thánh Thêôđôrê …v.v.
Đối với những thánh đường sống động của Chúa Thánh Thần, lòng yêu thương săn sóc của ngài còn được tăng cường gấp mấy. Người ta kể ngày kia ngài chủ toạ cuộc lễ khánh thành và cung hiến nhà thờ thánh nữ Anastasia. Trên đường đến nhà thờ hôm ấy, gặp một người hành khất rách rưới xin ngài làm phúc, Maxianô liền cởi ngay áo ngoài đang mặc cho người hành khất. Sau đó ngài liền tiến vào nhà thờ, vận phẩm phục hành lễ. Trong suốt giờ lễ, từ những người giúp việc đến vị Thượng giáo phụ, ngoài chiếc áo ngoài, ai nấy đều thấy như ngài còn vận thêm một tấm áo quý hoá nạm toàn bằng kim cương lóng lánh làm hoa mắt mọi người. Lễ xong, vị Thượng phụ gọi ngài tỏ ý khiển trách ngài ăn mặc quá xa hoa làm chướng mắt và làm gương xấu cho mọi người. Maxianô bỡ ngỡ vì nghĩ rằng mình làm gì có áo sang trọng ấy. Nhưng vị Thượng giáo phụ càng bỡ ngỡ hơn nữa vì khi vén áo trắng ngài ra xem thì không còn thấy áo xa hoa kia đâu nữa.
Những phép lạ thánh Maxianô làm, nhưng nhất là lòng thánh thiện và bác ái của thánh nhân, đã cảm hóa được nhiều người lạc giáo. Một số người đã bỏ điều lầm lạc để trở về với nguồn sáng thật.
Thánh nhân từ trần vào năm 471 sau một đời đầy công phúc.
Giáo Hội Đông Phương cũng như Tây Phương đều kính nhớ và mừng lễ thánh nhân vào ngày 10 tháng giêng và coi ngày đó như ngày ngài mệnh chung. Lòng sùng kính của giáo hữu đối với ngài ngày càng truyền lan, nhất là sau cuộc thiên tai động đất tại nhà thờ thánh Gioan Tẩy Giả, giáo hữu cầu khẩn ngài, và tai nạn đã qua không gây hại gì cho ai.
Hạt Giống Của Hy Vọng
Văn hào Shakespeare của nước Anh đã nói rằng: liều thuốc duy nhất còn lại cho những người khốn khổ chính là niềm Hy Vọng. Bao lâu còn hy vọng, bấy lâu con người muốn tiếp tục sống.
Những người Mỹ tại một thành phố nọ thường truyền tụng cho nhau nghe câu chuyện nuôi niềm hy vọng của một gia đình nọ như sau: Có một đôi vợ chồng nọ vừa yêu người cũng lại vừa yêu thiên nhiên. Ngoài năm đứa con ruột thịt ra, họ còn nhận thêm năm đứa con nuôị Niềm vui chung của mọi người trong nhà là được săn sóc vườn hoa và những thứ cây cảnh trong nhà. Người vợ tưởng chừng như không biết thế nào là đau khổ. Nhưng cả bầu trời như sụp xuống, vườn hoa trở thành hoang tàn, khi người chồng ngộ nạn, qua đờị Kể từ đó, người đàn bà không còn muốn ra khỏi nhà nữạ Thiếu bàn tay săn sóc của bà, ngôi vườn cũng mỗi lúc một tàn lụi.
Mùa đông đến càng làm cho ngày tháng càng thêm ảm đạm hơn. Thế nhưng, một bữa sáng nọ, người đàn bà bỗng nghe tiếng cười nói và cào xới trong ngôi vườn. Kéo tấm màn cửa sổ phòng ngủ lên, bà thấy các con của bà đang hì hục xới đất. Trước sự ngạc nhiên của bà, người con cả trong gia đình chỉ mỉm cười đáp: "Má sẽ biết khi mùa xuân đến". Và nguyên một mùa đông, ngày nào các con của bà cũng ra vườn để xới đất.
Thế rồi khi mùa xuân đến, bao nhiêu hoa đẹp đều nở rộ trong vườn. Những hạt giống mà những người con đã âm thầm gieo vãi trong mùa đông nay thức giấc bừng dậy làm cho ngôi vườn trở thành tươi mát, sặc sỡ.
Cùng với hạt giống của các thứ hoa, những người con đã gieo vào lòng người mẹ một thứ hạt giống khác: đó là hạt giống của Hy Vọng. Chính niềm hy vọng đó đã đem người đàn bà trở lại cuộc sống và đánh tan mọi buồn phiền trong tâm hồn bà.
Câu chuyện trên đây có lẽ cũng chính là bức tranh của không biết bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống hiện tại của chúng tạ Có những ngày tháng, mọi sự xem chừng như vô vọng. Có những lúc mây mù của khổ đau bao phủ kín khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Chính trong những lúc đó, chúng ta hãy nhớ đến hạt giống của niềm Hy Vọng. Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi cho các tín hữu Rôma như sau: "Chính trong niềm Hy Vọng mà chúng ta được cứu thoát. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng hãy nhìn thấy Sức Sống đang chờ đợi chúng tạ Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng ta hãy nhìn thấy những hoa trái của những hạt giống mà chúng ta đã vất vả gieo vãi.
Một người Hòa Lan và một người Mỹ bàn về ý nghĩa của hai lá cờ quốc giạ Người hòa Lan phát biểu một cách mỉa mai như sau: lá cờ của chúng tôi có ba màu: đỏ, trắng, xanh. Chúng tôi tức giận đỏ cả người lên, mỗi khi chúng tôi bàn đến thuế má. Chúng tôi run sợ đến trắng bệch cả người mỗi khi chúng tôi nhận được giấy thuế má. Và chúng tôi xanh như tàu lá sau khi đã trả hết các thứ thuế. Người Mỹ cũng nói lên một cảm tưởng tương tự mỗi khi nhận được các thứ giấy đòi nợ, nhưng lại bảo rằng: bù lại, chúng tôi chỉ thấy toàn các thứ sao.
Sao trên bầu trời là biểu hiện của chính niềm Hy Vọng. Bên kia những vất vả thử thách, bên kia những mất mát, bên kia những thất bại khổ đau, phải chăng người Kitô chúng ta không được mời gọi để thấy được các ngôi sao của niềm Hy Vọng.