DÁM TIN VÀO CHÚA
“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” (Mc 5,36)
Suy niệm: Chuyện kể ở ngôi làng nọ đang trải qua một cơn hạn hán kéo dài, đất đai nứt nẻ và hoa màu héo khô. Mọi người đều lo âu vì nguy cơ không còn một giọt nước để dùng. Họ thống nhất sẽ cùng nhau cầu nguyện, hy vọng Chúa Trời sẽ thương tình mà ban cho mưa xuống. Buổi tối, họ tập trung rất đông ở nhà thờ và cùng nhau cầu nguyện. Họ cầu nguyện trong sự lo lắng, và kỳ lạ thay, buổi cầu nguyện sắp kết thúc bỗng mây đen kéo đến và trời đổ mưa thật to. Cơn mưa lớn và kéo dài, đến lúc này mọi người mới chợt nhớ ra mình không thể về nhà vì sẽ bị ướt. Chỉ duy có một em bé gái trên tay cầm một chiếc dù màu đỏ bước ra và trở về nhà. Vậy đó, mọi người cùng cầu nguyện, nhưng chỉ có duy nhất em bé gái dám tin lời cầu nguyện của mình sẽ thành hiện thực.
Mời Bạn: Biết Chúa và dám tin vào Chúa có thể là hai chuyện khác nhau. Tin là dám phó thác hoàn toàn vào Chúa với niềm tin mãnh liệt Chúa sẽ ban điều tốt nhất cho mình và sẵn sàng đón nhận điều đó với tất cả tình yêu. Bạn được mời gọi không chỉ biết Chúa qua việc giữ đạo hằng ngày như một bổn phận, nhưng còn khao khát được gặp Chúa như cứu cánh của đời mình, dám tin và phó thác đời mình trong tay Chúa, trong hạnh phúc và trong cả những khổ đau.
Sống Lời Chúa: “Trước mọi công việc, trong mọi khó khăn, biết cầu nguyện, tìm ánh sáng và sức mạnh nơi Chúa, bàn hỏi với Chúa trước hết, phó thác cho Chúa trọn vẹn” (“Thập Đại Thắng”, ĐHY. Ph. Xav. Nguyễn Văn Thuận)
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin ban ơn để chúng con biết nhận ra Chúa luôn yêu thương chúng con và dám phó thác trọn vẹn cuộc đời trong tay Chúa. Amen.
THÁNH ALĐÊGÔNA
ĐỒNG TRINH
(630-684)
Đêm hôm ấy cả miền Hainô (Hainaut) tràn ngập ánh trăng. Vạn vật xanh tươi. Cảnh đẹp, người vui, trời sáng, phải chăng là để đón mừng bông hoa trinh khiết sắp chào đời: thánh nữ Alđêgôna.
Vào một đêm trăng hè năm 630 tại làng Cẩmsơn (Comsolke) trong một gia đình giầu sang, Alđêgôna đã cất tiếng khóc chào đời. Lại có lễ giáo, Cha mẹ cô là những tín hữu sốt sắng. Nhờ thế, Alđêgôna sớm được hưởng một nền giáo dục công giáo với nhiều gương sáng đạo đức. Ngay từ bé, Alđêgôna đã tỏ ra khiêm tốn, đơn sơ và bác ái. Cô sống vừa ý không những với chị em cùng tuổi mà với hết mọi người. Đặc biệt, cô thương những người nghèo khó và các trẻ em mồ côi. Suốt thời gian sống trong gia đình, cô giữ độc quyền việc phân phát của gia đình cho người nghèo khó mỗi khi họ tới xin, rồi chiều đến cô thường tới nhà thương để thăm nom an ủi các bệnh nhân.
Lên bảy tuổi, cô đã ngoan ngoãn cắp sách đến trường. Trí khôn đã sáng, cô học, học rất cần mẫn không để thua kém chị em và phiền lòng cô giáo hay cha mẹ. Ngoài việc học, Alđêgôna rất hay đọc truyện các thánh, nhất là Phúc âm. Vì theo cô, đó là vườn cảnh có nhiều hoa thơm cỏ lạ hơn cả. Ở đó cô sung sướng hái từng bông, không những áp lên môi, nhưng cắm vào tận lòng. Người ta kể, có lần thánh nữ đọc Phúc âm sốt sắng quá đột nhiên kêu lên: "Ôi, lạy Chúa Trời con, Chúa lộng lẫy và tráng lệ biết bao!"
Càng thêm tuổi, Alđêgôna càng ham suy niệm Phúc âm. Cô thường tìm nơi vắng vẻ mà đọc Phúc âm cho tiện tâm sự với Chúa. Và vì yêu Phúc âm, cô muốn sống theo tinh thần Phúc âm, bằng đời tận hiến và đồng trinh trong tu viện! Ý định ấy cô đã long trọng trình bầy và đoan hứa với Chúa trong một buổi rước lễ sốt sắng. Cô đã thưa với Chúa: "Lạy Chúa, ngoài Chúa, con không còn người bạn nào khác, Chúa là bạn lòng độc nhất của con. Con hoàn toàn tận hiến đời con cho Chúa. Xin Chúa nhận lời đoan hứa của con hôm nay, và cho con nhập vào sổ đoàn con trinh nữ của Chúa".
Và từ đấy, mỗi lần nghe chị em hay bất cứ một ai bàn tán đến duyên trời sắc nước của mình, bề ngoài Alđêgôna vẫn tươi cười tự nhiên theo lịch sự và bác ái, nhưng trong lòng cô nhẩm lại lời hứa đồng trinh ấy. Nhiều lúc chiều nghe dư luận, và xem tình ý của cha mẹ, Alđêgôna không thể không lo đến tương lai, đến bổn phận phải trung thành với Chúa. Cô khổ tâm vì chưa có hoàn cảnh thuận tiện để tỏ ý định cho cha mẹ hay, đàng khác trong miền Hainô hầu như không có một nữ tu viện nào. Nỗi lo lắng ấy cô cảm thấy mãnh liệt khi vừa lên 16 tuổi, cái tuổi xuân xanh mơn mởn.
Một buổi chiều đi học về, Alđêgôna cất sách vở rồi đi thẳng ra góc vườn, chỗ cô quen đọc Phúc âm. Hôm nay khác mọi chiều. Cô cảm thấy một sự gì lôi cuốn cô cầu nguyện với Chúa mà không cần dùng đến sách. Cô cầu nguyện sốt sắng bằng cách nhắc lại với Chúa lời khấn hứa xưa. Và chính trong buổi cầu sốt sắng này, cô được biết trước công việc sắp xẩy ra, để thử thách lòng trung thành của cô…
Màn đêm từ từ buông xuống trong vườn cây. Nhạc điệu buồn thảm của côn trùng như quyện với lời kinh của Alđêgôna! Sau giờ triền miên trong lời nguyện, Alđêgôna đứng dậy trở về với lòng đầy phấn chấn và tin tưởng.
Tối hôm ấy, đang lúc cặm cụi xem sách bên ngọn đèn dầu, Alđêgôna bỗng giật mình vì có tiếng người bước tới. Ngẩng mặt nhìn, cô nhận ra ngay bà hiền mẫu. Bà kéo ghế ngồi sát bên con, sau một cái hôn chí thiết bà Bertilla dịu dàng nói với con gái:
"Con yêu quý, bây giờ thầy mẹ đã già và con lại đến tuổi rồi. Dù chưa nói ra, hẳn con cũng đoán được sự lo lắng của thầy mẹ. Theo ý thầy mẹ, thì con phải gánh vác gia đình, vì còn gì yên ủi thầy mẹ hơn là trong tuổi già được sống trong cảnh gia đình đầm ấm của con. Đàng khác vì nghĩ đến tương lai của con, nên thầy mẹ muốn con nhận lời cầu hôn của hoàng tử Âutôn (Euton), một thanh niên vừa tài đức, vừa có địa vị trong xã hội; thầy mẹ không mong gì hơn là thấy con, vì tuổi già của thầy mẹ, mà biết ngoan ngoãn vâng lời, để an ủi tuổi già của thầy mẹ ".
Một tin xé lòng, và càng đau lòng hơn: những lời bầy tỏ quá khẩn nài của người mẹ yêu quý! Alđêgôna nghẹn lời, ngồi yên cúi đầu, để mặc những hạt lệ tự do trào ra trên gò má xinh xắn. Nhưng Chúa đã tiên báo cho cô rồi: bây giờ hơn lúc nào hết cô thấy rõ tình yêu của Chúa, thấy rõ con đường Chúa muốn mình quyết tuyển. Cô cảm thấy phải mạnh bạo thắng xúc động tình cảm, để trình bầy với mẹ lời hứa của mình. Cô gục đầu vào lòng thân mẫu như để trấn tĩnh con tim rạo rực, rồi lễ phép thưa: "Thưa mẹ, nghĩ đến công ơn sinh thành của thầy mẹ, con không thể nào quên, và không biết làm cách nào hầu đền đáp đôi phần. Và như mẹ vừa dậy, thầy mẹ thấy con càng lớn, càng lo cho tương lai của con, muốn gây hạnh phúc cho con, và đem cả tuổi già để sưởi ấm lòng con. Thật là công ơn trời bể! Nhưng thưa mẹ, vì được Chúa sớm dậy cho con biết công ơn của thầy mẹ, nên con muốn sống theo một đường lối khác, một đời sống mà con tin tưởng rằng Chúa sẽ giúp con đền đáp công ơn thầy mẹ cách hoàn hảo. Với đời sống ấy, trong tuổi già thầy mẹ sẽ yên trí về con hơn, cả khi Chúa gọi thầy mẹ về thế giới bên kia ".
Ngước mắt nhìn, thấy mẹ chăm chú nghe, Alđêgôna yên dạ, rồi thong thả cô thưa:
"Thưa Mẹ, con tin rằng thầy mẹ lúc nào cũng yêu con, nên hôm nay con đánh bạo trình bầy với mẹ ý định của con, và xin mẹ nói với thầy giúp con: con đã khấn với Chúa giữ đời đồng trinh, nhất định không kết bạn với người trần gian, nhưng tận hiến toàn thân cho Chúa và Mẹ Maria. Con ước ao được phụng dưỡng thầy mẹ cho đến giây phút cuối cùng".
Nghe thế, bà Bertilla nổi sung, đẩy con ra, đứng dậy và đi thẳng. Tuy nhiên, bà không quên quẳng lại mấy lời chua chát:
"Con tôi khờ dại, bất hiếu và ương ngạnh…"
Trước thái độ của thân mẫu, Alđêgôna không nói một lời, chỉ biết lau khô hai dòng lệ, vội bước vào phòng riêng tâm sự cùng Chúa…
Như nhiều cha mẹ khác, ông Ballertô và bà Bertilla tuy là hai tín hữu sốt sắng, là bậc cha mẹ gương mẫu, nhưng ông bà vẫn chưa vượt khỏi một tình yêu hẹp hòi của thế gian. Vì thế, ông bà không muốn Alđêgôna sống đời đồng trinh, nhưng muốn con phải kết bạn để ông bà có chốn nương tựa khi già lão. Suốt một năm ông bà tìm hết cách phá đổ ý định con gái; và sau cùng, biết đe loi cũng vô ích, ông bà nghĩ: tốt hơn là cứ cho người ta ăn hỏi và cưới đi là Alđêgôna phải chịu. Nhưng ông bà có biết đâu rằng ý định của Alđêgôna chỉ là đáp lại trung thành lời Chúa kêu gọi, mà chính ông bà không thể từ chối. Vì thế dù phải mắng hay bị đòn, thánh nữ một mực lễ phép xin thầy mẹ cho phép khỏi kết bạn… Không chấp thuận lời xin của con, ông bà đã nhận lời cầu hôn của hoàng tử Âutôn, và đã định ngày cưới!
Alđêgôna không biết xử trí ra sao. Cô than thở với Chúa: "Lạy Chúa xin dạy con phương thế phải dùng để trung thành với Chúa", Alđêgôna chỉ biết thưa với Chúa câu ấy! Được ơn Chúa soi sáng, Alđêgôna mất hẳn tính nhút nhát của một thiếu nữ, đêm trước ngày cưới, cô bỏ nhà trốn lên rừng với hai nữ tì và ít lương khô tạm sống. Cô sống tịch liêu trong một hang đá, ngày đêm chuyên việc cầu nguyện, đọc Phúc âm và sách thiêng liêng. Thánh nữ sống như thế cho đến khi được tin hoàng tử Âutô đã lập gia đình mới trở về tạ lỗi và xin phụng dưỡng cha mẹ cho đến chết. Mấy năm sau, hai ông bà lần lượt trút hơi thở trong sự chăm nom tận tụy của Alđêgôna, người con gái trinh khiết và hiếu thảo!
Sau khi song thân tạ thế, Alđêgôna được tự do sống đời tận hiến, cô ít đi chơi như thói các gia đình quý tộc, nhưng ở nhà coi sóc mọi công việc và chăm lo tu luyện nhân đức. Cô để nhiều giờ cầu nguyện suy gẫm Phúc âm, tìm mọi cách ăn chay hãm mình và thi hành việc bác ái, Alđêgôna cũng mở nhiều lớp dạy giáo lý cho các em và cho những phụ nữ muốn học hỏi. Vì thế tiếng nhân đức cô lừng lẫy khắp miền. Lạ hơn nữa, dù ăn chay đánh tội nhiều, duyên sắc của Alđêgôna vẫn không suy giảm, trái lại mỗi ngày một thêm mặn mà tươi đẹp, nhờ nếp sống điều độ và nhân đức. Và đó là dịp Chúa muốn cô phải chống chọi một lần nữa.
Hoàng tử Âutôn, dù đã lập gia đình, nhưng không thể dẹp được tình yêu quá mặn mà đối với thánh nữ, chàng muốn cậy thế theo đuổi cô một lần nữa. Trong lúc cùng quẫn, thánh Alđêgôna phải bỏ nhà trốn đi với lòng tín thác hoàn toàn vào Chúa. Lòng tin tưởng bền vững ấy đã được Chúa đáp lại bằng mọi cách. Và để cảnh cáo chàng Âutôn, Chúa cho chàng chứng kiến nhiều phép lạ thánh nữ làm để tự vệ: thánh nữ chạy trong rừng rậm mà thân xác và quần áo không hề sây sứt; lội qua khe suối mà không ướt chân; rồi khi Âutôn phi ngựa tới gần thánh nữ, chàng nom thấy hai thiên thần trên trời xuống hộ vệ thánh nữ. Lúc ấy thánh nữ càng xinh đẹp với một thứ phục sức thiêng liêng là ánh sáng của hồng ân Thiên Chúa. Âutôn đành phải quay gót trở về.
Quả thế, trong mọi lúc, càng gian nan, thánh nữ càng phó thác cho Chúa. Thánh nữ sống với Chúa như đứa con thơ sống với mẹ. Nhờ lòng tin tưởng bền bỉ này, thánh nữ đã lướt thắng mọi khó khăn về đức khiết trinh, để trung thành với lời đã hứa. Sau biến cố đó cô không trở về nhà, đến cư ngụ tại thành phố Manbenge sống chung với mấy người trinh nữ trong một nếp nhà lá cỏn con. Mấy năm sau chính Alđêgôna đi bộ đến tu viện Caosơn (Hautmont) bàn việc với các vị Giám mục Amant và Hubertô. Hai vị khuyên cô nên khấn và đội khăn trinh nữ. Alđêgôna vâng lời, và ít lâu sau, đã xin nhận khăn trong một buổi lễ long trọng do hai Giám mục cử hành. Theo tài liệu còn lại, những người dự buổi lễ khấn này đã được chứng kiến một việc lạ vô cùng cảm động. Việc lạ xẩy ra để chứng minh lòng trinh khiết và đức trông cậy của Alđêgôna. Đó là việc Chúa Thánh Thần hiện ra trên đầu Alđêgôla dưới hình chim bồ câu, khi Alđêgôla nhận khăn trắng do tay Đức Giám mục trao ban. Khi ấy Alđêgôna đã 40 tuổi.
Lòng đầy hoan lạc, thánh nữ trở về Mabengê. Tại đây, thánh nữ vâng lời các Đức Giám mục đem hết của cải xây cất hai nhà dòng một cho người nam, một cho người nữ. Thánh nữ lại xây thêm ba nhà thờ để kính Chúa Ba Ngôi. Nhờ ơn Chúa, công việc xuôi chảy, và thánh nữ đã huấn luyện được nhiều môn đệ. Thánh nữ huấn luyện không những bằng lời nói, nhưng bằng gương sáng và đời sớng cầu nguyện, hãm mình. Thêm vào đó, những năm cuối đời, Chúa còn cho thánh nữ làm nhiều phép lạ. Vì thế tiếng thơm nhân đức càng bay xa, nhiều khách thập phương đến xin thánh nữ cầu nguyện và hướng dẫn đường thiêng liêng.
Nhưng bồ câu trắng của Chúa đã đến ngày phải cất cánh về trời cao; bông hoa lừng hương đã đến giờ Chúa muốn hái về. Thánh nữ cũng tiên cảm giờ hạnh phúc ấy, hội chị em lại, khuyên bảo lần sau cùng và dần dần lịm đi cách êm ái giữa lời cầu nguyện và lòng luyến ái của các chị. Thánh nữ qua đời ngày 30 tháng giêng năm 384, thọ 54 tuổi. Xác thánh nữ được mai táng trong nhà thờ thành Manbengê.
Tình Yêu Là Sức Mạnh Vạn Năng
Ngày 30 Tháng Giêng cách đây đúng 40 năm, Mahatma Gandhi, người cha già của dân tộc Ấn Ðộ đã vĩnh viễn ngã gục sau mấy nhát gươm của một thanh niên Ấn Giáo quá khích.
Hôm đó, như thường lệ, Gandhi được hai người cháu dìu đi cầu nguyện. Cả một đám đông đang đi theo đằng sau Ngàị. Bỗng nhiên, một thanh niên từ trong đám đông sấn tới đâm bổ vào Người của vị cha già dân tộc. Ba nhát gươm đâm xới xả vào một thân thể khô gầy vì không biết bao nhiêu hy sinh cho đất nước.
Thinh lặng bao chùm lấy đám đông. Người ta chỉ còn nghe được hai tiếng từ miệng của vị thánh "Rama, Rama" nghĩa là "Chúa ơi, Chúa ơi". Với một cố gắng cuối cùng, Ngài giơ hai tay lên, đan lại trong một cử chỉ cầu nguyện và tha thứ, rồi ngã gục.
Người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại Gandhi vì anh không thể chấp nhận được sự kiện Gandhi bày tỏ lòng quảng đại yêu thương ngay cả với những người Hồi Giáọ
400 triệu người Ấn Ðộ đã than khóc và để tang cho vị cha già của dân tộc. Không khí buồn thảm cũng bao trùm khắp thế giớị Mọi người đều cảm nhận rằng ngày hôm đó trái đất trở nên cằn cỗi, nghèo nàn hơn, bởi vì đã mất đi một người con vĩ đại, một người con đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc mà không cần dùng đến khí giới của bạo động và hận thù. Chính Ngài đã từng nói: Tình Yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất, nhưng cũng là sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có.
Tình Yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất, nhưng cũng là sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có trong tay.
Chiến tranh và không biết bao nhiêu vấn đề mà thế giới ngày nay đang phải giải quyết, dường như thế giới chỉ muốn giải quyết bằng bạo động, bằng vũ khí giết ngườị Sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có trong tay là tình yêu, chỉ có một số ít người đang dùng đến.
Mục sư Luther King, người da đen, đang sử dụng khí giới của tình yêụ Oâng đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen được đứng lên làm người như người da trắng. Giám mục Desmond Tutu, người Nam Phi da đen cũng đang đi theo vết chân của Gandhi và Luther King. Mẹ Têrêxa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình thương để cho những người không nhà không cửa, những người hấp hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con ngườị
Tất cả những mẫu gương trên đây chỉ là những phản ánh của một tình yêu trọn vẹn hơn, đó là tình yêu của Ðấng đã chịu chết cho người mình yêụ Chính Ngài đã nói: Khi nào Ta chịu treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo tất cả mọi người về với Ta.
Người Kitô chúng ta đang ở trong sức kéo ấy. Ngài đã cho chúng ta được sát nhập vào thân thể của Ngài và truyền cho chúng ta chính sức sống của Ngàị Người Kitô chỉ có thể là người Kitô khi họ sống bằng chính Sức Sống và Tình Yêu của Ngài.