PHẦN BẠN, HÃY THEO CHÚA
“Giả như Thầy muốn anh ấy ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy.” (Ga 21,22)
Suy niệm: Thói xấu “trâu cột ghét trâu ăn” đã ăn sâu vào tâm thức con người đến độ các môn đệ, dù đã được Chúa Giê-su huấn luyện ba năm, vẫn chưa gột rửa được. Câu chuyện xì xèo chung quanh “người môn đệ được Đức Giêsu thương mến” ấy do chính Phê-rô là người “đầu têu” khơi dậy qua câu hỏi ngụ ý ghen tỵ: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” Phải chăng Phê-rô quên rằng chính mình vừa được Thầy rộng lượng “xí xoá” vụ chối Thầy ba lần rồi lại “đặc cách” giao cho sứ mạng chăn dắt đoàn chiên của Chúa đó sao? Chúa kêu gọi mỗi người mỗi cách ban ơn riêng phù hợp để mỗi người chu toàn sứ mạng của mình trong sự hoà hợp với nhau để xây dựng Hội Thánh. Chúa Giê-su không trả lời câu hỏi của Phê-rô, nhưng Ngài nhắc nhở ông hãy lo chu toàn sứ mạng của mình thay vì dòm ngó người khác bằng cặp mắt ghen tỵ: “Việc gì đến anh? Phần anh hãy theo Thầy.”
Mời Bạn: Mỗi người chúng ta đều được Chúa giao cho sứ mạng riêng. Thế nhưng chúng ta vẫn hay “lấn sân”, tò mò người này, xem xét người kia, phê bình thế này, chỉ trích thế nọ, không phải với thiện chí xây dựng mà chỉ vì động cơ ghen tức… Bạn nhớ mình cũng là “người môn đệ được Đức Giê-su thương mến” và Ngài cũng hỏi bạn “có yêu mến Ngài không”. Khi bạn dành tất cả của bạn cho Ngài, trong lòng bạn, bạn sẽ chỉ còn bận tâm một điều: “Phần con, cứ theo Thầy.”
Sống Lời Chúa: Quyết tâm làm việc bổn phận cách cẩn thận, trong tâm tình vui vẻ hoà hợp với anh chị em.
Cầu nguyện: Xin Chúa cho con biết ý thức được sứ mạng của con trong bất kỳ công việc hay lãnh vực nào để từ đó con luôn nỗ lực chu toàn cách tốt đẹp hơn.
Thánh Charles Lwanga và Các Bạn
(c. 1886)
T |
Tù trưởng Mwanga là nhà cai trị tàn ác và thích dâm dục với trẻ em và người cùng phái. Các Kitô Hữu làm việc trong triều cố gắng bảo vệ những người tiểu hầu này. Người quản lý các tiểu hầu là một thanh niên Công Giáo hai mươi lăm tuổi, Joseph Mkasa và anh cũng là người lãnh đạo cộng đồng Kitô Hữu.
Khi tù trưởng Mwanga giết các nhà truyền giáo Tin Lành, anh Joseph Mkasa đã chất vấn và lên án hành động của ông. Mwanga rất quý Joseph, nhưng vì anh dám đòi hỏi ông phải thay đổi lối sống, Mwanga đã quên đi tình bằng hữu ấy và đã tuyên án tử hình sau khi đâm anh bằng giáo. Trước khi bị chặt đầu và hoả thiêu, anh Joseph đã tha thứ cho nhà vua.
Anh Charles Lwanga thay thế vai trò lãnh đạo cộng đồng Kitô Giáo trong triều đình -- với trách nhiệm gìn giữ các tiểu hầu khỏi bàn tay dâm loạn của tù trưởng. Một ngày trong tháng Năm 1886, sau khi tù trưởng Mwanga biết tiểu hầu Mwafu đang được học giáo lý Công Giáo, ông nổi điên và đã dùng giáo đâm chết Denis Sebuggwago, là thầy dạy các tiểu hầu.
Ðêm hôm đó, anh Charles Lwanga rửa tội thêm năm tiểu hầu nữa. Sáng hôm sau, việc rửa tội được khám phá, Mwanga điên tiết, tụ họp tất cả các tiểu hầu và ra lệnh những ai là Kitô Hữu phải đứng tách sang một bên. Mười lăm người, tất cả đều dưới 25 tuổi, đồng loạt đứng sang một bên và sau đó có thêm hai người nữa trước đây đã bị bắt và có cả hai người lính. Khi được hỏi có muốn giữ đạo hay không, tất cả đều trả lời, "Giữ đạo cho đến chết." Tù trưởng Mwanga ra lệnh tử hình mọi Kitô Hữu sống trong triều.
Tất cả ba mươi hai người Công Giáo và Tin Lành được điệu đến một nơi cách đó 37 dặm để bị thiêu sống. Ba người bị giết trên đường đi. Những người còn lại bị giam giữ trong bảy ngày để chuẩn bị giàn hoả thiêu. Vào ngày lễ Thăng Thiên, tất cả các vị tử đạo nằm trên chiếu bằng sậy, được bó lại và cột chặt. Sau khi đổ dầu, tất cả đều bị thiêu sống.
Việc bắt đạo bắt đầu lan tràn. Dưới sự cai trị của tù trưởng Mwanga, khoảng 100 Kitô Hữu đã đổ máu đào làm chứng cho đức tin.
Sau khi Mwanga từ trần, các linh mục thừa sai trở lại đây, họ thấy số Kitô Hữu đã lên đến 500 người và một ngàn dự tòng đang đợi để được rửa tội.
Hai mươi hai vị tử đạo Công Giáo đã được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh ngày 18 tháng Mười 1964.
Lời Bàn
Cũng như Thánh Charles Lwanga, tất cả chúng ta là người rao giảng và chứng nhân cho đời sống Kitô Giáo. Chúng ta được mời gọi loan truyền lời Chúa, qua lời nói và hành động. Khi can đảm sống đức tin trong thời đại nhiều thử thách về luân lý, chúng ta đã sống như Ðức Kitô.Lời Trích
Trong chuyến tông du Phi Châu năm 1969, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI nói với người Uganda, "trở nên một Kitô Hữu là điều tốt lành, nhưng không luôn luôn dễ dàng."
Chúa Là Nơi Con Nương Tựa
Dạo tháng 6 năm 1985, những người theo dõi truyền hình bên Tây phương vẫn còn nhớ mãi hình ảnh chiếc máy bay đang đậu ở phi trường, với viên phi công trong buồng lái ngó ra ngoài nói chuyện với một số phóng viên, trong khi có một người đứng bên cạnh, cầm súng dí sát vào đầu viên phi công. Ðó là hình ảnh của viên phi công John Testrake trên chiếc máy bay của hãng hàm không TA, bị không tặc uy hiếp trên đường bay từ thủ đô Hên của Hy Lạp về La Mã. Trong suốt 17 ngày, không tặc đã dùng lựu đạn và súng uy hiếp viên phi công, buộc ông phải bay từ Bút qua Alger rồi bay về Bút cả thảy bốn lần. Họ cũng đã bắn chết một hành khách, đánh đập một số hành khách khác. Cuối cùng họ đã để cho 39 con tin trên máy bay được đem đến một căn nhà ở Bút rồi được chở về Ðoác trước khi được trả tự do. Mặc dù không phải là con tin trên chiếc máy bay đó, nhiều người cũng thấy căng thẳng hồi hộp chỉ vì theo dõi tin tức trên truyền hình hay truyền thanh...
Mới đây, viên phi công John Testrake có thuật lại kinh nghiệm hi hữu của mình. Anh nói như sau: "Lúc đó, tôi biết chắc chắn là có Chúa ở với tôi, nên tôi không những không sợ hãi mà còn tràn ngập bình an tin tưởng là khác". Anh cũng nói thêm rằng anh đã theo đạo năm lên 25 tuổi, nhưng lúc bấy giờ anh chưa thật sự thức tỉnh, bắt đầu đọc Kinh Thánh và cầu nguyện một cách đều đặn. Nhờ có Kinh Thánh mang trong mình, cho nên trong suốt 17 ngày bị uy hiếp, anh vẫn không tỏ ra nao núng vì tin chắc có Chúa đang phù trợ anh...
Cách đây hai năm, John Testrake đã xin thôi không làm việc cho háng hàng không TWA để tập trung vào các công việc từ thiện và để lái máy bay đưa các nhà truyền giáo đến các vùng xa xôi hẻo lánh. Ði đến đâu, anh cũng thuật lại việc Chúa đã giải cứu anh, nhất là việc Ngài đã ban cho anh bình an tin tưởng khi phải chạm trán với tử thần.
Ai trong chúng ta có lẽ cũng hơn một lần chạm trán với tử thần hay kinh qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống... Những người không có niềm tin thường sợ hãi bối rối vì không biết những gì đang chờ đợi mình bên kia cuộc sống. Những người có niềm tin hẳn không là những con người không biết sợ hãi, nhưng họ tin rằng bên cạnh họ luôn có Ðấng che chở phù trợ họ.
Chúng ta có thái độ nào khi đứng trước những giờ phút nguy ngập, những thử thách trong cuộc sống? Chúng ta có tin tưởng rằng có Ðấng luôn ở bên cạnh chúng ta, để giữ gìn, phù hô chúng ta không? Với niềm tin vững vào Tình Yêu của Ðấng luôn có mặt bên cạnh chúng ta, chắc chắn chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống, chúng ta sẽ đối đầu với những khó khăn và thử thách với bình thản và vui tươị