MỪNG BỔN MẠNG TRUYỀN THÔNG TẠI TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON NGÀY 27/5/2017
Bài nói chuyện của Đức giám mục Phêrô Nguyễn văn Khảm trong Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 51 (28-05-2017) do các giáo phận Sài Gòn, Mỹ Tho và Phú Cường cử hành tại Trung tâm Mục vụ TGP Sài Gòn ngày 27-05-2017
Đã nhiều lần tôi có cơ hội đến đây trình bày Sứ điệp truyền thông hằng năm của các Đức Giáo hoàng. Năm nay cũng thế. Nếu có điều gì khác hơn, chắc là vì tôi mới đi dự Đại hội của Quốc vụ viện Truyền thông, từ ngày 3-5 tháng 5 năm 2017, tại Rôma. Vì thế xin chia sẻ một vài cảm nghĩ từ Đại hội cũng như từ Sứ điệp truyền thông năm 2017 của Đức Giáo hoàng Phanxicô.
1. Trước hết là cảm nhận về Hội Thánh toàn cầu. Các thành viên của Quốc vụ viện tham dự Đại hội được mời ở ngay trong Nhà Santa Marta, cũng là nơi ở của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Vì ở chung nhà nên hằng ngày nhìn thấy Đức Giáo hoàng, người cha chung của Hội Thánh toàn cầu, với áo dòng trắng đơn sơ, xuống nhà cơm và dùng cơm chung với mọi người. Rất gần gũi.
Thêm vào đó, nơi họp Đại hội không phải là trụ sở của Quốc vụ viện Truyền thông (trên đường Hòa giải) nhưng là một phòng họp lớn trong Dinh giáo hoàng, nơi Đức Giáo hoàng tiếp kiến các nguyên thủ quốc gia và những phái đoàn lớn trên thế giới, cũng như tiếp các giám mục trong dịp ad limina. Hội họp trong dinh thự đó giúp người tham dự ý thức rằng mình đang làm việc của Hội Thánh toàn cầu chứ không phải của riêng quốc gia nào. Tính toàn cầu đó còn thể hiện qua sự đa dạng của các tham dự viên: 20 thành viên chính thức của Quốc vụ viện thuộc 18 quốc tịch khác nhau, ở nhiều châu lục khác nhau: châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Phi.
Ngoài ra, sau những giờ làm việc, khi ra quảng trường Thánh Phêrô, tôi nhìn thấy và gặp các đoàn hành hương từ khắp nơi trên thế giới và nói đủ thứ ngôn ngữ, tuôn về Rôma, thủ phủ của Hội Thánh Công giáo. Tất cả đều tạo cho tôi cảm nhận rõ ràng về Hội Thánh toàn cầu.
2. Hội Thánh toàn cầu quan tâm đến truyền thông. Mục đích của việc thiết lập Quốc vụ viện Truyền thông đã được chính Đức Giáo hoàng Phanxicô xác định trong Tự sắc thành lập cũng như trong diễn văn ngỏ lời với Đại hội, là “nghiên cứu những tiêu chuẩn và phương thức mới để thông truyền Tin Mừng lòng thương xót đến mọi dân tộc, trong các nền văn hóa khác nhau, qua những phương tiện truyền thông mà bối cảnh văn hóa kỹ thuật số cung cấp cho con người ngày nay” (ĐGH Phanxicô, Diễn văn tại Đại hội của Quốc vụ viện Truyền thông, ngày 4-5-2017).
Để đạt mục đích đó, vấn đề không chỉ là sáp nhập những cơ quan trước đây lại với nhau (Báo Osservatore romano, Nhà in Vatican, Nhà xuất bản Vatican, Radio Vatican, TV Vatican, Hội đồng giáo hoàng về Truyền thông, Phòng báo chí Tòa Thánh, Dịch vụ internet, Dịch vụ hình ảnh), nhưng là kiến tạo một cơ chế hoàn toàn mới, đáp ứng nhu cầu truyền thông trong thế giới thay đổi rất nhanh về khoa học kỹ thuật, hình thành nền văn hóa kỹ thuật số. Hội Thánh cần phải hiện diện trong thế giới kỹ thuật số để thi hành sứ mệnh Chúa Giêsu đã trao phó là “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).
3. Trong thế giới kỹ thuật số, mọi Kitô hữu đều được mời gọi tham gia sứ mệnh loan báo Tin Mừng, trở thành một tác viên truyền thông. Một trong những nét độc đáo của văn hóa kỹ thuật số là mỗi người đều trở thành chủ thể truyền thông thay vì chỉ là đối tượng. Trong thời đại báo in, chỉ có một số rất ít các nhà báo, phóng viên…viết bài, còn trong thế giới kỹ thuật số, ai cũng viết được. Có những bloggers thu hút người xem hơn cả một tờ báo in. Nếu không viết cả bài báo thì những comments cũng là cách phản hồi, vừa nhanh gọn vừa có thể gây hiệu ứng cao.
Vì mỗi người đều là chủ thể truyền thông nên câu hỏi đặt ra là: chúng ta nói gì, viết gì trên mạng toàn cầu? Nói gì và viết gì lại tùy thuộc cách chúng ta nhìn thực tại. Thật vậy, vấn đề không chỉ là những sự kiện và thực tại đang diễn ra nhưng còn là cách chúng ta nhìn thực tại, là cặp kính chúng ta dùng để nhìn thực tại, như Đức Giáo hoàng Phanxicô nói trong Sứ điệp Truyền thông 2017. Cũng một sự vật nhưng người ta có thể nhìn thấy khác nhau về màu sắc cũng như hình dáng, tùy vào cặp kính mang trên mắt. Tương tự như thế, cũng một sự kiện, một biến cố, mỗi người có thể nhìn cách khác là tùy vào cặp kính nội tâm của mình. Và từ cách nhìn khác nhau sẽ dẫn đến phản ứng và thái độ khác nhau.
Cặp kính tốt nhất là Tin Mừng, không chỉ là Tin Mừng về Chúa Giêsu nhưng là chính Chúa Giêsu. Do đó, mang cặp kính Tin Mừng là mang tâm thế của Chúa Giêsu: “Hãy mang trong anh em những tâm tư của Chúa Giêsu” (Phil 2,5).
4. Tâm thế của Chúa Giêsu là tâm thế hy vọng mà Sứ điệp diễn tả là sợi chỉ xuyên suốt lịch sử cứu độ và nắm men làm dậy cả khối bột. Để cụ thể hóa điều này, tôi nhớ đến dụ ngôn Người gieo giống (Mt 13,3-9). Chính cộng đoàn của Matthêu đã giải thích ý nghĩa của dụ ngôn (Mt 13,18-23): nghe Lời Chúa mà không hiểu là gieo bên vệ đường; nghe mà không đâm rễ sâu là gieo nơi sỏi đá; nghe mà không sinh hoa kết quả là gieo vào bụi gai; còn nghe mà hiểu và sinh hoa kết quả là gieo vào đất tốt. Cách giải thích này được gọi là giải thích theo tỷ ngôn, còn theo một số nhà chú giải Kinh Thánh thì điểm nhấn của dụ ngôn là ở chỗ khác, đó là niềm hy vọng mãnh liệt của người gieo. Người gieo giống ra đi gieo hạt giống Nước Trời. Nhìn từ bên ngoài, xem ra công việc thất bại vì quá nhiều hạt giống rơi trên sỏi đá, trong bụi gai, bên vệ đường. Dù vậy chăng nữa, vẫn có những hạt rơi vào đất tốt và sinh hoa kết quả phong phú. Cho nên hãy cứ kiên nhẫn mà gieo hạt giống Nước Trời. Rõ ràng là tâm thế tràn đầy hy vọng.
Hãy nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu. Cả một đời bôn ba rao giảng khắp nơi, làm bao nhiêu phép lạ, được quần chúng tôn vinh…Thế rồi, vào thời điểm cuối cùng, từ đỉnh cao thập giá nhìn xuống, Người thấy gì? Những cánh tay giơ cao đòi đóng đinh, những cái miệng hô to lên án; ngay cả những môn đệ thân thiết cũng bỏ chạy, dưới chân thập giá chỉ còn lại bà mẹ già và người học trò yêu. Nhưng chính trong giây phút tưởng như tuyệt vọng đó, Chúa Giêsu kêu lên “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” và “Lạy Cha, con phó thác sự sống con trong tay Cha”. Đó là tiếng kêu của hy vọng, cậy trông, phó thác. Chỉ có niềm hy vọng mãnh liệt vào sự chiến thắng tối hậu của tình yêu mới làm cho người ta dám tha thứ cho những kẻ giết chết mình. Chỉ có niềm hy vọng mãnh liệt vào Thiên Chúa mới ban tặng sức mạnh để dám phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa trong những giây phút kinh hoàng nhất. Chính vì thế, thập giá Đức Kitô trở thành nguồn hy vọng. Và thay cho đám đông hò la lên án hôm ấy trên đồi Canvê, muôn ngàn thế hệ đã, đang và sẽ hát lên: “Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Ngài, ơn cứu độ của ta, sức sống của ta, phục sinh của ta”.
5. Tâm thế hy vọng giúp khám phá những điều tích cực hơn là chỉ nhìn vào điều tiêu cực, giúp mở cánh cửa đi về phía tương lai hơn là nhốt kín tha nhân trong ngục tù quá khứ. Hãy đọc lại câu chuyện Người nữ ngoại tình (Ga 8,1-11). Các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, và nhân danh lề luật, người ta đòi ném đá người phụ nữ đó. Bằng việc tuyên án đó, người ta khóa chặt cuộc đời của chị trong quá khứ, và cả cuộc đời chị bị đóng dấu bằng tội ngoại tình! Còn Chúa Giêsu thì sao? Người nói với chị phụ nữ: “Con về đi và đừng phạm tội nữa”. Không chỉ là giúp chị thoát chết nhưng là mở cho chị cả một cánh cửa đi tới tương lai. Và Chúa Giêsu mở cánh cửa đó cho chị vì Người nhìn thấy điều tích cực nơi chị chứ không chỉ là điều tiêu cực”: tuy chị có tội nhưng đó không phải là tất cả, chị có khả năng sống cuộc sống tốt lành như bao người và có thể hơn nữa.
Ngày nay, ngồi trước bàn phím, cũng có nhiều ông bà thuộc hàng kinh sư và Pharisêu như thế! Cứ lên mạng là biết, cứ vào facebook là thấy. Có “hot news” nào là đủ thứ comments. Không cần tìm hiểu sự thật ra sao, cứ “chửi” đã! Càng cay chua càng đã! Họ thích lên án hơn là tha thứ, thích nhốt người khác trong quá khứ hơn là mở cho người khác cánh cửa đi tới tương lai.
Có điều rất lạ, khi kể chuyện về người nữ ngoại tình, thánh Gioan ghi nhận rằng khi nghe Chúa Giêsu nói “Ai trong các ông sạch tội thì lấy đá mà ném trước đi”, họ bỏ đi hết, “bắt đầu từ những người lớn tuổi” (Ga 8,8). Cái lạ là Đấng chí thánh, Đấng không hề phạm tội, thì không lên án nhưng chỉ tha thứ, còn kẻ tội lỗi lại thích lên án. Ngày nay cũng thế thôi. Hình như có thứ tâm lý bù trừ ở đây. Bản thân tội lỗi đầm đìa nhưng thích xoi mói và lên án người khác để tỏ ra rằng mình tốt lành. Còn người đạo đức thật sự lại rộng lòng cảm thông và tha thứ. Đức Giáo hoàng Phanxicô chia sẻ rằng mỗi khi đến thăm các tù nhân, ngài hay tự hỏi: nếu tôi ở trong hoàn cảnh của họ, tôi có tốt hơn họ không hay còn tệ hơn thế? Lại chẳng đáng cho chúng ta cân nhắc khi ngồi trước bàn phím sao?
Kết luận: Tâm thế hy vọng giúp ta khám phá những điều tích cực hơn là tiêu cực, quảng đại với tha nhân hơn là chật hẹp, nhờ đó trở thành người loan báo Tin Mừng hơn là tin dữ, tin vui hơn là tin buồn, qua bài viết, comments, hình ảnh đưa lên trên internet. Hãy bước vào thế giới kỹ thuật số với tâm thế hy vọng và trở thành người loan báo Tin Mừng.
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn:
Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô cho Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội thứ 51
“Đừng sợ, vì Ta ở với ngươi” (Is 43,5)
Thông truyền niềm Hy vọng và sự Tin tưởng trong thời đại chúng ta
Nhờ những tiến bộ về công nghệ, việc tiếp cận các phương tiện truyền thông giúp cho biết bao người có thể chia sẻ thông tin tức thời và phổ biến rộng rãi. Những tin tức ấy có thể tốt hay xấu, đúng hay sai. Các Kitô hữu đầu tiên đã ví tâm trí con người như chiếc cối xay liên tục; cối xay ấy phải xác định sẽ xay cái gì: lúa tốt hay cỏ lùng. Tâm trí chúng ta luôn phải “xay”, nhưng nhiệm vụ của chúng ta là lựa chọn cái gì để xay (x. Thánh Gioan Cassian, Thư gửi Leontius).
Tôi muốn gửi sứ điệp này đến tất cả những ai, trong công việc chuyên môn của mình hoặc trong các mối tương quan cá nhân, giống như những chiếc máy xay ấy, hằng ngày “xay ra” những thông tin để cung cấp lương thực bổ dưỡng cho những người mà họ giao tiếp. Tôi muốn khuyến khích mọi người tham gia vào các loại hình truyền thông mang tính xây dựng, loại bỏ định kiến với người khác và cổ võ nền văn hóa gặp gỡ, giúp mọi người chúng ta nhìn thế giới xung quanh một cách thực tế và đầy tin tưởng.
Tôi tin rằng chúng ta phải phá vỡ cái vòng lẩn quẩn của sự lo âu và phải ngăn chặn vòng xoáy của nỗi sợ hãi phát xuất từ thói quen tập chú vào “những thông tin xấu” (chiến tranh, khủng bố, những bê bối và tất cả các loại thất bại của con người). Hẳn nhiên đây không phải là cổ võ cho những thông tin sai lạc chẳng lưu tâm đến bi kịch đau khổ của con người, cũng không phải là lạc quan ngây thơ mù quáng với những bê bối của cái ác. Trái lại, tôi muốn rằng tất cả chúng ta hãy nỗ lực vượt qua cảm xúc bất mãn và cam chịu ấy, vốn đôi khi gây ra sự dửng dưng, sợ hãi hay ý tưởng rằng cái ác không có giới hạn. Hơn nữa, trong một hệ thống truyền thông cho rằng thông tin tốt thì chẳng ai tin, và bi kịch nỗi đau của con người và mầu nhiệm sự dữ dễ dàng biến thành thú vui; thì chúng ta luôn bị cám dỗ ru ngủ lương tâm hoặc rơi vào bi quan thất vọng.
Thế nên tôi muốn góp phần vào việc tìm kiếm một phong cách truyền thông rộng mở và sáng tạo, một phong cách không bao giờ tìm cách làm cho cái ác trở nên hấp dẫn nhưng tập trung vào các giải pháp và truyền cảm hứng cho người tiếp nhận thông tin đến với các thông tin một cách tích cực và có trách nhiệm. Tôi kêu gọi mọi người hãy cung cấp cho con người ngày nay những câu chuyện thực chất là những “tin vui”.
Tin vui
Cuộc sống không đơn giản chỉ là một chuỗi các sự kiện nối tiếp nhau, nhưng là một lịch sử, một câu chuyện chờ được kể qua việc lựa chọn một lăng kính diễn giải có thể chọn ra và thu thập các dữ liệu có liên quan nhất. Thực tại tự nó không có một ý nghĩa rõ ràng. Tất cả tuỳ thuộc vào cách chúng ta nhìn nhận sự việc, theo lăng kính chúng ta dùng để quan sát. Nếu chúng ta thay đổi lăng kính, thực tại sẽ xuất hiện khác đi. Vậy làm thế nào chúng ta có thể bắt đầu “đọc” được thực tại qua các lăng kính đúng?
Đối với người Kitô hữu chúng ta, lăng kính ấy chỉ có thể là tin vui, khởi đầu với Tin Mừng tuyệt hảo: “Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,1). Với những lời này, Thánh Máccô mở đầu Phúc Âm của ngài không phải bằng cách tường thuật “tin vui” về Chúa Giêsu, nhưng tường thuật tin vui là chính Chúa Giêsu. Thật vậy, đọc các trang sách Phúc Âm Máccô, chúng ta thấy rằng nhan đề tương ứng với nội dung, và trên hết, nội dung này là chính con người Chúa Giêsu.
Tin vui này – là chính Chúa Giêsu – không phải vui vì không dính dáng gì tới đau khổ, nhưng vì chính đau khổ đã được sống trong một khung cảnh rộng lớn hơn, như một phần thiết yếu của tình yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và với cả nhân loại. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã bày tỏ sự liên đới với mọi hoàn cảnh của con người. Ngài đã nói với chúng ta rằng chúng ta không đơn côi, vì chúng ta có một Người Cha luôn lưu tâm đến con cái mình. “Đừng sợ, vì ta ở với ngươi” (Is 43,5): đây là những lời đầy an ủi của một Thiên Chúa dìm mình vào lịch sử của dân Ngài. Trong Con yêu dấu của Ngài, lời hứa này của Thiên Chúa – “Ta ở với ngươi” – đảm nhận mọi nỗi yếu đuối của chúng ta, kể cả chết với cái chết của chúng ta. Trong Đức Kitô, ngay cả bóng tối và cái chết cũng trở thành nơi gặp gỡ Ánh sáng và Sự sống. Hy vọng bừng lên, một niềm hy vọng ai cũng có thể chạm đến, ngay tại nơi cuộc sống gặp thất bại cay đắng. Niềm hy vọng ấy không làm chúng ta thất vọng, vì tình yêu của Thiên Chúa đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta (x. Rm 5,5) và làm cho cuộc sống mới nở hoa, như một chồi non mọc lên từ hạt giống rơi xuống. Khi nhìn trong ánh sáng này, mọi bi kịch mới xảy ra trong lịch sử thế giới cũng có thể trở thành một bối cảnh cho tin vui, vì tình yêu luôn tìm ra cách để đến gần và khơi gợi những tấm lòng chân thành, những khuôn mặt quả quyết và những bàn tay sẵn sàng dựng xây.
Niềm tin vào hạt giống của Vương quốc
Để trình bày cho các môn đệ và đám đông tinh thần Phúc Âm này và ban cho họ đúng chiếc “lăng kính” cần thiết để nhìn và nắm bắt được tình yêu đã chết và đã sống lại, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn. Ngài thường so sánh Nước Thiên Chúa với một hạt giống từ bỏ sự sống của mình ngay khi nó rơi xuống đất và chết đi (x. Mc 4,1-34). Việc sử dụng hình ảnh và ẩn dụ để truyền thông sức mạnh thầm lặng của Vương quốc không làm giảm tầm quan trọng và tính cấp thiết của Vương quốc; nhưng lại là một phương thức đầy thương xót giúp cho người nghe có được tự do đón nhận và tìm cho mình sức mạnh ấy. Đó cũng là cách hiệu quả nhất để diễn tả phẩm tính vô biên của mầu nhiệm Vượt Qua, bằng cách dùng hình ảnh –hơn là khái niệm–, để thông truyền vẻ đẹp nghịch lý của cuộc sống mới trong Chúa Kitô. Trong cuộc sống ấy, khó khăn và thập giá không làm cản trở, nhưng mang lại ơn cứu độ của Thiên Chúa; sự yếu đuối chứng tỏ mình mạnh mẽ hơn bất cứ quyền lực nào của con người; và thất bại có thể lại khơi mào để hoàn thành mọi sự trong tình yêu. Niềm hy vọng trong Vương quốc trở nên vững mạnh và đâm rễ sâu theo cách thế này: đó là “như một người gieo hạt giống trên mặt đất, dù đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên” (Mc 4,26-27).
Vương quốc của Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta, như một hạt giống dễ dàng bị bỏ quên, nhưng vẫn âm thầm đâm rễ. Những ai được Chúa Thánh Thần ban cho cái nhìn bén nhạy có thể nhìn thấy hạt giống ấy nảy mầm. Chúng không để cho mình bị cướp mất niềm vui của Vương quốc bởi các loại cỏ lùng mọc khắp nơi.
Các chân trời của Chúa Thánh Thần
Niềm hy vọng của chúng ta, dựa trên tin mừng là chính Chúa Giêsu, khiến chúng ta ngước mắt lên chiêm ngắm Chúa trong cử hành phụng vụ lễ Chúa Thăng Thiên. Dẫu rằng hiện nay Chúa có vẻ xa cách chúng ta, nhưng chân trời hy vọng lại càng rộng mở. Trong Đức Kitô, Đấng đưa bản tính nhân loại của chúng ta lên thiên đàng, mỗi người, nam và nữ, nay có thể tự do “đi vào cung thánh nhờ máu của Chúa Giêsu, nhờ con đường mới và mang sự sống mà Người khai mở cho chúng ta qua bức màn, tức là, qua thân xác Người” (Dt 10,19-20). Nhờ “quyền năng của Chúa Thánh Thần”, chúng ta có thể trở nên những chứng nhân và “người truyền thông” về một nhân loại mới và được cứu chuộc, “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,7-8).
Niềm tin vào hạt giống của Vương quốc Thiên Chúa và mầu nhiệm Phục Sinh cũng định hình phong cách truyền thông của chúng ta. Niềm tin tưởng này khiến chúng ta có thể thực hiện công việc của mình –bằng nhiều hình thức truyền thông ngày nay– với niềm xác tín rằng có thể nhận ra và làm nổi bật những thông tin tốt đẹp trong mỗi câu chuyện và trong khuôn mặt của từng người.
Những ai phó thác cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn mình trong đức tin, sẽ nhận ra cách thế Thiên Chúa hiện diện và hoạt động trong từng khoảnh khắc cuộc sống của họ và trong lịch sử thế giới như thế nào, khi Ngài kiên nhẫn dệt thành lịch sử cứu độ. Niềm hy vọng là các sợi chỉ dệt nên lịch sử thánh thiêng này, và Người thợ dệt không ai khác hơn là Chúa Thánh Thần, Đấng An ủi. Niềm hy vọng là đức tính khiêm tốn nhất trong các đức tính, vì nó vẫn ẩn giấu trong các ngóc ngách của cuộc sống; nhưng nó lại giống như men làm cho cả khối bột dậy men. Chúng ta nuôi dưỡng niềm hy vọng bằng cách đọc đi đọc lại Phúc Âm, vốn được “tái bản” qua rất nhiều phiên bản trong đời sống của các thánh là những người đã trở thành biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa trong thế giới này. Hôm nay cũng vậy, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục gieo vào lòng chúng ta nỗi khát khao Nước Trời, nhờ tất cả những ai, lấy cảm hứng từ Tin Mừng giữa những biến cố bi thảm trong thời đại chúng ta, chiếu toả như những ngọn đèn hiệu trong bóng tối của thế giới này, để soi sáng đường đi và mở ra những con đường mới của tin tưởng và hy vọng.
Vatican, ngày 24 tháng 1 năm 2017
PHANXICÔ, Giáo hoàng
(Minh Đức chuyển dịch theo bản tiếng Anh của Libreria Editrice Vaticana, có tham khảo bản tiếng Pháp)