Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 10, 1-9)
1 Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.2 Người bảo các ông:3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này! "6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia.8Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.9Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."
SUY NIỆM 1
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta nghe và suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 trong Tin Mừng theo thánh Luca. Đây là đoạn trích thứ hai thuật lại việc Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Người sai đi từng nhóm hai người một để như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ.
Như thế, Chúa Giêsu không những có nhóm Mười Hai, mà còn thêm nhóm Bảy Mươi Hai này. Ngaười chọn lựa, sau khi đã đào tạo, Người sai đi, để chính nhờ họ và những vị tông đồ kế tiếp trong Giáo Hội, mà chúng ta đã gặp được Chúa Giêsu.
Công việc của người môn đệ là làm cho người khác biết về Chúa Giêsu, hay nói cách khác là làm chứng cho sự thật. Và đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đã sai từng hai người môn đệ đi làm việc tông đồ (x. Lc 10,1b). Không phải chỉ nhằm để họ giúp đỡ nhau, mà “hai người” là có ý nhấn mạnh: làm tông đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo như luật Do Thái, một điều gọi là chân lý có giá trị, phải có ít là hai người làm chứng (x. Dnl 19,15), để tất cả công việc phải được đoán định từ miệng hai hay nhiều nhân chứng đó (x. Mt 18,16).
Là người môn đệ của Chúa cần phải thấy được tính cấp bách lệnh truyền của Người, bởi vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a). Vì thế, mà Giáo Hội dạy rằng: “người giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng kính thánh Luca. Ngài chỉ là một người giáo dân, làm nghề lương y, nhưng đã theo giúp thánh Phaolô. Ngài đã điều tra cẩn thận về đời sống của Chúa Giêsu cũng như giáo lý của Người, rồi sau đó viết lại cho chúng ta hai tác phẩm là sách Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ.
Là một người dân ngoại được đón nhận Tin Mừng, nên Luca đã muốn trao lại Tin Mừng đó cho những người dân ngoại khác. Vừa có học thức, lại có khiếu văn chương, và là một y sĩ (x. Cl 4, 14), thánh Luca đã dùng hết tài năng của mình để phục vụ cho Lời Chúa (x. Lc 1, 2).
Người ta cho rằng thánh Luca là một họa sĩ đã vẽ nên hình của Đức Mẹ, và bức ảnh đó ngày nay được tôn kính ở đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma. Nhưng điều cho chúng ta chắc chắn hơn nhiều là thánh Luca đã vẽ chân dung của Chúa Giêsu, khi ngài đã dùng ngồi bút để viết nên sách Tin Mừng.
Thánh sử Luca là một người dân ngoại được ơn viết Sách Thánh. Chúng ta cũng là những người dân ngoại được ơn lãnh nhận đức tin. Dẫu rằng, chúng ta không thể viết ra được những câu chuyện tuyệt đẹp như thánh Luca, về một người cha nhân hậu đầy tấm lòng thương xót, nhưng chúng ta vẫn có thể kể được những câu chuyện của đời mình cho người khác, những câu chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan chứa niềm vui tri ân. Và đó cũng chính cách thức để từng người chúng ta trở nên những thợ gặt được Chúa sai đến với cánh đồng lúa của Ngài đang trông đợi người thợ lành nghề.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (c. 2).
Trong hành trình truyền giáo cuối cùng với thánh Phaolô (Cv 20, 5),
Luca hẳn đã thấy những cánh đồng lúa chín ở mọi nơi,
đang chờ nhiều người gặt hái gấp, kẻo lúa bị hư hoại.
“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi…” (c. 3).
Dù chưa bao giờ gặp mặt Đức Giêsu,
nhưng Luca đã nghe được tiếng gọi sai đi của Ngài.
Ông đã là cộng tác viên ở bên thánh Phaolô khi người ở tù (Plm 24),
và đã một mình ở lại khi người bị giam lúc cuối đời (2 Tm 4, 11).
Luca muốn trao lại Tin Mừng đó cho những người dân ngoại khác.
Vừa có học thức và khiếu văn chương, lại vừa là y sĩ (x. Cl 4, 14),
Luca đã dùng tài năng của mình để phục vụ cho Lời Chúa (x. Lc 1, 2).
Người ta cho rằng Luca là một họa sĩ đã vẽ chân dung Đức Mẹ,
nay được tôn kính ở Đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma.
Nhưng điều chắc chắn hơn nhiều là Luca đã vẽ chân dung Đức Giêsu,
khi thánh nhân cầm bút viết sách Tin Mừng cho dân ngoại.
Qua việc nghe lời giảng của các tông đồ, qua tìm hiểu và chiêm niệm,
Luca trở nên người hiểu rất sâu về trái tim nhân từ của Thầy Giêsu.
Không hiểu Thầy Giêsu thì không thể viết được cuốn Tin Mừng như thế.
Luca cho ta thấy một Giêsu say mê cầu nguyện,
từ khi Ngài chịu phép rửa của Gioan đến khi chịu treo trên thập tự.
Cầu nguyện là giây phút Ngài có thể nói lên tiếng Abba với Cha.
Giây phút riêng tư ấy, cả môn đệ cũng không khuấy động được.
Luca còn cho thấy một Giêsu cương quyết lên Giêrusalem, vì đó là ý Cha.
“Hôm nay, ngày mai, và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi…” (13, 33).
Ngài đi đến nơi khổ đau và cái chết đang chờ đợi (Lc 9, 51 -19, 27).
nghèo sức khỏe, nghèo tiền bạc, nghèo phẩm giá, nghèo đời sống tâm linh.
Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ, chúc lành và tha thứ.
Ngài đem đến cuộc cách mạng của Thiên Chúa, cho người nghèo nên giàu,
đem tình thương tha thứ vô bờ của Thiên Chúa cho tội nhân
đem sự bình đẳng cho các phụ nữ để họ trở nên người cộng tác (8, 2-3).
Vì thế Tin Mừng của Luca cũng tràn ngập niềm vui,
từ niềm vui của Dacaria, của Gioan trong bụng mẹ, của các mục đồng,
đến niềm vui của các môn đệ sau khi Đức Giêsu thăng thiên (24, 52).
Chúng ta cũng là dân ngoại được ơn lãnh nhận đức tin.
Dù không thể viết được những câu chuyện tuyệt đẹp như thánh Luca,
về người cha nhân hậu hay về hai môn đệ đi Emmaus,
nhưng chúng ta vẫn có thể kể câu chuyện đời mình cho người khác,
câu chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan chứa niềm vui tri ân.
Khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
Chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống
Đã âm thầm chịu nát tan
Để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
Chúng con được hưởng hôm nay
Là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
Của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
Của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
Của những người đã nằm xuống
Cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
Để từ cái chết của họ
Vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người,
Chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
Đừng tự khép mình trong lớp vỏ
Để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
Nhưng dám đi ra
Để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
Chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
Đi từ cõi chết đến nguồn sống,
Đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
Trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen