Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

Linh Mục Tê Liệt Đang Trong Tiến Trình Phong Thánh

Filled under:

Lm Bill Atkinson đã sống hơn 40 năm với chiếc xe lăn vì ngài không thể cử động từ cổ trở xuống sau khi bị tai nạn. Tai nạn này làm hư hại hệ thống thần kinh của ngài vào năm 1965. Lúc bị tai nạn thì ngài đang là một tu sinh. Ngài trải qua 30 năm làm giáo sư dạy trường Bonner High School ở vùng Drexel Hill, Pennsylvania.
Lm DiGregorio nói vào tháng 9 năm 2015 rằng:
“Chúng tôi tin tưởng rằng cha Bill có một cuộc đời thánh thiện và cha xứng đáng được giáo hội công nhận là Thánh vì cha có một cuộc sống tuyệt vời và là một gương mẫu của cuộc sống Phúc Âm .”
“Nếu những ai tin rằng họ nhận được ân huệ qua lời cầu bầu của cha Bill, hoặc là nếu cuộc sống của cha có ảnh hưởng đến cuộc đời của họ qua việc giảng dạy của cha hay lời giảng thuyết của cha; hoặc những ai có những cảm nghiệm thiêng liêng với cha Bill thì xin liên lạc và làm chứng để vị Tôi Tớ Chúa sớm được phong Chân Phước và Thánh của giáo hội .”
Khi cha Bill Atkinson được 19 tuổi và đang tu ở chủng viện thì ngài bị tai nạn và bị tê liệt từ cổ trở xuống. Lúc ấy cha Bill rất buồn vì nghĩ là giấc mộng trở nên một linh mục đã hết. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 1973,  Đức Giáo Hoàng Paul VI cho phép ngài từ một người tê liệt trở nên một vị linh mục bị liệt đầu tiên.
Ngày 3/2/1974 tại nhà thờ St. Alice Church ở vùng Stonehurst, Upper Darby, Philadelphia, Đức Hồng Y John Krol ban phép lành cho cha Bill Atkinson để ngài trở nên một giáo sư dạy họ tại trường Monsignor Bonner High School, trong suốt 30 năm sau đó.
Trước khi vị linh mục Dòng Augustino này chết vào lúc 60 tuổi vào năm 2006, ngài đã gây nguồn cảm hứng cho rất nhiều người với sự khôn ngoan và can đảm của mình.
Có nhiều người đã nói rằng ngài xứng đáng được trở nên một vị thánh của giáo hội Công Giáo.
Em họ của cha Bill là bà Mary Moody ở vùng  Brookhaven nói rằng:
“Anh tôi không thể đụng chạm đến nhiều người nhưng anh mong là nhiều người cảm nhận được sự hiện diện của anh. Anh rất nổi tiếng với đức kiên nhẫn, chờ đợi và anh xin sự giúp đỡ trong tiến trình phong thánh này .”
Cha Bill trải qua 20 tháng trong các bịnh viện sau khi gặp tai nạn. Cha là người con thứ ba trong số 7 người con của ông Allan và bà Mary Atkinson. Ngài là một chú giúp lễ tại nhà thờ St. Alice Church trong khi học trường tiểu học Công Giáo ở giáo xứ. Khi gặp tai nạn, cha Atkinson mất 90 pounds. Ngài không còn thở được nhiều lần vì bị sưng phổi. Có 6 tu sinh sống với ngài và học cách chăm sóc cho ngài.
Ông Heron, bạn của cha Bill, cũng từng là một thầy Dòng Augustino trong 5 năm trước khi ông quyết định xuất và đi làm y tá. Ông tiếp tục giúp đỡ cho cha Bill khi ngài bị bịnh. Ông nói:
“Tôi đến thăm cha Bill và nói rằng tôi có thể giúp đỡ ngài khi ngài cần điều gì. Điều cha Bill cần là sự giúp đỡ vào mỗi buổi sáng để lo vệ sinh bởi vi những tu sĩ khác đang đến trường .”
"Tôi biết cha Bill Atkinson trong 35 năm, tôi thấy cha đối diện với rất nhiều sự khó khăn và nhiều áp lực. Nhưng ngài luôn làm cho tôi ngạc nhiên với những việc làm bác ái của ngài .”
Bà Moody nói rằng ông Heron đã huấn luyện các học sinh trường học Bonner để họ chăm sóc cho vị linh mục tê liệt của họ. Bà tiếp:
“Cha Bill luôn nói chuyện với những cha mẹ của các học sinh mà cha chọn để giúp đỡ cha và xem các học sinh ấy có trưởng thành đủ để đôi diện với tình huống khó khăn không. Đôi lúc, các học sinh ở phòng bên cạnh bởi vì họ phải giúp đỡ cha Bill lăn mình lại trong mỗi hai tiếng đồng hồ. Các cha mẹ họ cũng muốn các con họ làm việc giúp đỡ cha Bill .”
Các học sinh nói với báo Daily Times rằng họ học được nhiều điều tích cực từ cha Bill Atkinson trong lúc họ  chăm sóc cho cha. Nhiều giáo dân được cha Bill dạy dỗ thì xem cha như một vị Thánh sống.
Vị linh mục chính xứ nói rằng cha Bill Atkinson được vinh danh là Vị Tôi Tớ Chúa tại nhà thờ St. Mary Magdalen vào ngày 1/11/2015.
“Các chị em của ngài là các bà Elizabeth Harvey và Joan Mullen, các anh em của ngài là các ông Al và Ed Atkinson, cùng với vợ và các con cháu của họ cùng hợp nhau xin phép lạ để cha Bill có thể được nâng lên hàng “Bậc Đáng Kính” trước khi là Chân Phước và Thánh.
Xin cha Bill Atkinson cầu bầu cho gia đình chúng con được ơn hoán cải, ơn Thiên Triệu, ơn chữa lành và ơn cứu độ. Amen.
Kim Hà
24/11/2015


Biết Ơn Người Cha Khai Sinh Ra Chữ Quốc Ngữ Tiếng Việt Nam
Sau 351 năm mới tìm thấy ngôi mộ người đã khai sinh ra những mẫu tự Việt Nam.
Kỷ niệm 354 năm qua đời của linh mục Alexandre de Rhodes (hay còn gọi là cha Đắc Lộ), Người đã khai sinh ra chữ Việt cho chúng ta đang sử dụng. Xin cám ơn Người đã cho chúng ta biết được những mặt chữ tiếng Việt và từ đó chúng ta không còn lệ thuộc vào chữ viết của người Tàu nữa.
Cha Đắc Lộ, một nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ nói chung và của Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng
"Khi cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, Cha Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ".
Năm 1651 khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in Vatican, quyển tự điển đầu tiên và các sách đầu tiên bằng chữ
Quốc ngữ, cha Đắc Lộ đã giải phóng nước Việt Nam khỏi nô lệ giặc Tàu .
Thật vậy, giống như Nhật Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều Tiên mới chế biến ra một chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Tàu.
Trong khi đó, người Tàu của Mao Trạch Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Đắc Lộ, đã tiến bộ trước người Tàu đến 3 thế kỷ.
Với hy vọng có thể tìm được nơi linh mục trở về với cát bụi, chúng tôi, đoàn Việt Nam đang công tác tại Iran đã đến Isfahan – thành phố cổ cách Teheran 350 km về phía Nam. Đó là một ngày đầu năm 2011, một tuần sau lễ Giáng sinh.
Quảng trường Naghsh-i Jahan của Isfahan là một trong những quảng trường lớn nhất địa cầu với kiến trúc tiêu biểu Hồi giáo đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa nhân loại. Tại thành phố này, Alexandre de Rhodes đã sống những năm cuối đời. Mặc dù trước đó, phần đời chính của ông là ở Việt Nam.
Chúng tôi đến Isfahan vào một ngày mùa đông se lạnh nhưng tràn ánh nắng. Hỏi đường đến một nhà thờ Công giáo nào đó, chúng tôi được người dân chỉ dẫn tận tình. Điểm chúng tôi đến là nhà thờ Vank, nhà thờ Thiên Chúa  lớn nhất Isfahan.
Qua giây phút ngạc nhiên trước đoàn khách Việt Nam, cha xứ nhà thờ nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi hồ hởi. Trước nay, hiếm có du khách Á đông nào, nhất là từ Việt Nam xa xôi tới nơi đây. Ông nhiệt tình dẫn chúng tôi đi tham quan và nói về lịch sử nhà thờ.
Nằm trong thế giới Hồi giáo, nhà thờ có kiến trúc bề ngoài đặc trưng Hồi giáo, nhưng vào bên trong, với các tranh và tượng Thánh đầy ắp khắp các bức tường, cứ ngỡ như đang ở một nhà thờ nào đó ở Roma hay Paris.
Cha xứ càng ngạc nhiên hơn khi chúng tôi hỏi về giáo sĩ Alexandre de Rhodes – người đã mất cách đây hơn 350 năm. Nhà thờ Vank có một thư viện lớn, lưu trữ nhiều tư liệu quý giá. Cha xứ nói người vào thư viện tìm kiếm. Lát sau, một thanh niên to khỏe khệ nệ mang ra một cuốn sổ dày cộp, to chừng nửa cái bàn, bìa bọc da nâu ghi chép về các giáo sĩ đã làm việc và mất tại đây. Ngạc nhiên và vui mừng tột độ, cha và chúng tôi tìm thấy dòng chữ ghi Alexandre de Rhodes mất năm 1660.
Như vậy, không nghi ngờ gì nữa, chính tại nhà thờ Vank này, cha Đắc Lộ đã sống và làm việc những năm cuối đời. Chúng tôi hỏi:
“Thưa cha, liệu có thể tìm thấy mộ của Alexandre de Rhodes ở đâu không?”
Cha xứ tận tình chỉ đường cho đoàn khách đặc biệt tới Nghĩa trang Công giáo ở ngoại ô thành phố. Nghĩa trang nằm dưới chân đồi. Các ngôi mộ nằm êm mát dưới tán rừng thông, tùng, bách mênh mông, vắng lặng. Lạ một điều, nghĩa trang Công giáo nhưng không thấy một cây thánh giá nào.
Chia nhau đi các ngả tìm kiếm, lần mò hồi lâu, chúng tôi reo lên khi thấy ngôi mộ có ghi rõ tên Alexandre de Rhodes. Mộ ông nằm bên cạnh hai ngôi mộ khác thành một cụm ba ngôi. Gọi là mộ, nhưng không đắp nổi như ở Việt Nam. Đó chỉ là tảng đá lớn nằm nghiêng nửa chìm, nửa nổi trên mặt đất. Dù đã trải qua mưa nắng, biến động cuộc đời hơn ba thế kỷ, chữ khắc trên tảng đá còn khá rõ nét.
Trong ánh nắng ban trưa, chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước ngôi mộ, ai cũng thấy dâng lên trong lòng mình những cảm xúc bâng khuâng khó tả.