Thứ Năm, 30 tháng 6, 2016

Lời cầu nguyện mở ra lối thoát trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn

Filled under:

Lời cầu nguyện giúp thắng vượt các khép kín và mở một lối thoát trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn
PopeFrancis-29Jun2016-01.jpg

Lời cầu nguyện giúp thắng vượt các khéo kín và cho phép ơn thánh mở một lối ra trong cuộc sống chúng ta: từ khép kín tới rộng mở, từ sợ hãi tới can đảm, từ buồn phiền tới niềm vui. Và chúng ta có thể thêm từ sự chia rẽ tới hiệp nhất.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên trong bài giàng thánh lễ cử hành lúc 9 giở 30 sáng 29-6-2016, lễ kính hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô. Cùng đồng tế với ĐTC có 40 Hồng Y, 75 Tổng Giám Mục và Giám Mục, trong đó có 25 Tổng Giám Mục nhận dây Pallium và 300 linh mục.

Trong số các Tổng Giám Mục nhân dây Pallium có 4 vị người Ý, 4 vị Brasil, các nước Tây Ban Nha, Mêhicô và Ecuador mỗi nuớc 2 vị, các nước Pháp, Bỉ, Thổ Nhĩ Kỳ, Cuba, quần đảo Antille, Ba Lan, Myanmar, Benin, Mỹ, đảo Salomon mỗi nước 1 vị.

Hiện diện trong thánh lễ có gần 10.000 tín hữu đặc biệt là phái đoàn của Toà Thượng Phụ Chính Thống Costantinopoli, gồm Đức Methodios TGM Boston, ĐC Telmessos, ĐC Job và Trưởng Phó tế Nephon Tsemalis.

Đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ ngoài ca đoàn Sistina của Toà Thánh, còn có mấy ca đoàn khách. 

Các bài đọc bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha, Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý và Phúc Âm được hát bằng tiếng Latinh. Các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng Pháp, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tầu và Ý.

Sau lời chào mở đầu, các Phó tế đã xuống trước mộ của Thánh Phêrô lấy các khăn Pallium để ở đây lên. Tiếp theo sau là phần giới thiệu các Tổng Giám Mục được nhận dây Pallium và lời thề của các vị. Dây Pallium được làm bằng lông chiên có 5  thánh giá mầu đen. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV nó đã được ĐGH dùng. Có lẽ nó đã là một dấu hiệu của hoàng đế, sau này được dùng cho các Giám Mục. Dây Pallium biểu tượng cho sự hiệp nhất của các Tổng Giám Mục với Đức Giáo Hoàng, là người kế vị thánh Phêrô. Sau này nó đuợc ĐGH là Giám Mục Rona trao cho các Tổng Giám Mục, nhất là dưới thời ĐGH Gregorio VII sau năm 1000, khi có nhu cầu kiểm soát việc lựa chọn các Giám Mục. Kể từ đó các Tổng Giám Mục đến Roma để nhận dây Pallium. Sau đó dây Pallium cũng được ban cho các vị không phải là Tổng Giám Mục như là một dấu hiệu danh dự. Vào thập niên 1970 Đức Phaolô VI đã cải cách hình thức trao dây Pallium, vì thế ngày nay nó chỉ được ban cho các Tổng Giám Mục mà thôi trong ngày lễ kính hai thánh Phêrô Phaolô 29 tháng 6 hàng năm, để nêu bật sự hiệp nhất gắn bó của các vị với Ngài Toà Thánh Phêrô. Trong suốt ngàn năm đầu tiên của Giáo Hội dây Pallium biểu tượng cho con chiên lạc và mục tử mang nó trên vai trái. Đó là hình chúng ta tìm thấy trên các ảnh vẽ icone trên gỗ và trên các bức khảm đá mầu. Sau ngàn năm thứ nhất dây Pallium thay đổi hình thức, nó được mang trên cổ và có ý nghĩa khác. Năm hình thánh giá đỏ ám chỉ 5 dấu thánh Chúa. Ba dấu thánh giá diễn tả 3 chiếc đinh đóng vào người Chúa Giêsu. Như thế dây Pallium đặc biệt có ý nghĩa kitô học, diễn tả Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành. Ngày này dây Pallium bao gồm tất cả các ý nghĩa kể trên và biểu hiệu cho Mục Tử Nhân Lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.

Giảng trong thánh lễ ĐTC nói:

Lời Chúa trong phụng vụ chứa đựng một từ kép chính yếu: đóng – mở. Chúng ta cũng có thể để bên cạnh hình ảnh này biểu tượng của các chià khóa, mà Chúa Giêsu hứa ban cho Simon Phêrô để ông có thể mở cửa vào Nước Trời, chứ không đóng nó trước người ta, như vài ký lục và người pharisêu mà Chúa Giêsu quở trách, đã làm (c. Mt 23,13).

Bài đọc sách Tông Đồ Công Vụ (12,1-11) trình bầy với chúng ta ba cái đóng: thánh Phêrô bị đóng trong ngục; cộng đoàn đóng cửa chăm chú cầu nguyện; và trong bối cảnh gần với văn bản của chúng ta – sự đóng cửa nhà bà Maria, mẹ của Gioan gọi là Marco, nơi Phêrô tới gõ cửa  sau khi được giải thoát.

Liên quan tới các đóng kín này, lời cầu nguyện xem ra như là lối ra chính: lối ra cho cộng đoàn, có nguy cơ đóng kín trong chính mình vì cuộc bách hại và vì sợ hãi; lối ra cho Phêrô, còn đang ở trong giai đoạn đầu của sứ mệnh do Chúa trao phó, bị vua Hêrôđê tống ngục và có nguy cơ  bị kết án tử. Trong khi thánh Phêrô ở trong tù, thì “Giáo Hội liên lỉ dâng lên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12,5). Và Chúa đáp trả lời cầu nguyện và sai thiên thần tới giải thoát ông, “giật thoát ông khỏi tay vua Hêrôđê (c. 11). Lời cầu nguyện như là việc khiêm tốn tín thác nơi Thiên Chúa và thánh ý Ngài, luôn luôn là lối ra cho các khép kín cá nhân và công đoàn của chúng ta.

Tiếp tục bài giảng ĐTC nói: Cả  thánh Phaolô, khi viết thư cho Timôthê, cũng nói về kinh nghiệm giải thoát của ngài, kinh nghiệm đi ra khỏi nguy hiểm bị kết án tử; nhưng Chúa đã ở gần ngài và ban cho ngài sức mạnh, để ngài có thể hoàn thành công trình rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (x. 2 Tm 4,17). Nhưng Phaolô nói tới một rộng mở lớn lao hơn nhiều, hướng tới một chân trời vô cùng rộng rãi hơn: chân trời của cuộc sống vĩnh cửu, trước hết để đem Chúa Kitô tới cho những người không biết Chúa, và rồi để ném mình vào trong vòng tay ôm của Chúa và được Chúa cứu thoát đem lên trời trong nước Ngài” (c. 8).

Chúng ta hãy trở lại với thánh Phêrô. Trình thuật Tin Mừng (Mt 16,13-19) về lời tuyên xưng đức tin và sứ mệnh theo sau mà Chúa Giêsu tín thác cho thánh Phêrô cho thấy rằng cuộc sống của Simon - bác thuyền chài người Galilê  - như là cuộc sống của từng người trong chúng ta – mở ra, hoàn toàn mở ra, khi nó tiếp nhận ơn thánh đức tin từ Thiên Chúa Cha. Khi đó Simon lên đường – một con đường dài và cam go – sẽ đưa ông tới chỗ ra khỏi chính mình, ra khỏi các an ninh nhân loại của mình, nhất là ra khỏi sự kiêu căng lẫn lộn với can đảm và với lòng quảng đại yêu thương tha nhân. Trên lộ trình này của cuộc giải thoát của ông, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thật là định đoạt: “Thầy đã cầu nguyện cho anh, để đức tin của anh không thuyên giảm” (Lc 22,32). Nhưng cũng định đoạt cái nhìn tràn đầy cảm thương của Chúa, sau khi Phêrô đã chối Ngài ba lần: một cái nhìn đánh động con tim và tháo cởi các giọt nước mắt của sự hối hận (x. Lc 22,61-62).. Khi đó Simon đưọc giải thoát khỏi ngục tù của cái tôi kiêu căng và sợ hãi, và thắng vượt cám dỗ khép kín với lời mời Chúa Giêsu mời gọi theo Ngài trên con đường thập giá.

Như tôi đã nhấn mạnh, trong bối cảnh của sách Tông Đồ Công Vụ có một chi tiết chúng ta có thể ghi nhận (x. 12,12-17). Khi Phêrô được giải thoát ra khỏi ngục của vua Hêrôđê một cách lạ lùng, ông đến nhà bà mẹ của Gioan gọi là Marcô. Ông gõ cửa, và từ bên trong một đầy tớ gái tên là Rođê nhận ra tiếng Phêrô, nhưng thay vì mở cửa thì lại đầy nghi ngờ và vui mừng chạy vào báo cho bà chủ biết. Trình thuật xem ra tức cười, khiến cho chúng ta nhận thức được bầu khí sợ hãi mà cộng đoàn kitô đã sống, đóng kín trong nhà và cũng khép kín với cả các ngạc nhiên của Thiên Chúa nữa. Chi tiết này nói với chúng ta về cám dỗ luôn luôn hiện hữu đối với Giáo Hội: cám dỗ khép kín trong chính mình, khép kín trước các hiểm nguy.  Nhưng ở đây cũng có lốc xoáy, qua đó hoạt động của Chúa có thể đi ngang qua: thánh sử Luca nói rằng trong nhà đó “nhiều người họp nhau và cầu nguyện” (v. 12). ĐTC giải thích thêm như sau:

Lời cầu nguyện cho phép ơn thánh mở một lối ra: từ khéo kín tới rộng mở, từ sợ hãi tới can đảm, từ buồn phiền tới niềm vui. Và chúng ta có thể thêm từ sự chia rẽ tới hiệp nhất. Phải, hôm nay chúng ta nói lên điều này với sự tin tưởng cùng với các anh em của Phái đoàn, do ĐTC đại kết Bartolomeo thân mến gửi tới tham dự lễ hai thánh Bổn Mạng của Roma. Một ngày lễ của sự hiệp thông đối với toàn thể Giáo Hội như cũng minh nhiên sự hiện diện của các Tổng Giám Mục đến tham dự lễ làm phép các dây Pallium sẽ được các vị đại diện của tôi đeo cho các vị tại các toà địa phương.
Xin các thánh Phêrô Phaolô bầu cử cho chúng ta, để chúng ta có thể tươi vui hoàn thành lộ trình này, sống kinh nghiệm hoạt động giải thoát của Thiên  Chúa và làm chứng cho nó trước tất cả  mọi người.

Lúc 12 giờ trưa ĐTC đã ra cửa sổ Dinh Tông Toà đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại quảng trường dưới trời nóng 34 độ C của mùa hè Roma. Ngỏ lời với mọi người ĐTC nói: hôm nay lễ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô chúng ta chúc tụng Chúa vì lời rao giảng và chứng tá của các vị. Giáo Hội Roma được xây trên đức tin của hai vị Bổn Mạng của mình. Nhưng hai vị cũng là rường cột và là ánh sáng lớn chiếu soi không những trên bầu trời Roma mà cả trong con tim của các tín hữu Đông và Tây Phương nữa. Trình thuật sứ mệnh của các Tồng Đồ cho biết Chúa Giêsu gửi các môn đệ ra đi cứ hai người một (x, Mt 10,1; Lc 10,1). Trong một nghĩa nào đó từ Thánh Địa hai thánh Phêrô Phaolô cũng đã được gửi tới Roma để rao giảng Tin Mừng. Hai vị đã là những người rất khác nhau: thánh Phêrô một bác “thuyền chài khiêm tốn”, thánh Phaolô “bậc thầy và tiến sĩ” như phụng vụ hôm nay nói. Nhưng nếu ở Roma này chúng ta được biết Chúa Giêsu, và nếu đức tin kitô là phần sống động và nền tảng của gia tài tinh thần và nền văn hóa của vùng đất này, thì cũng là nhờ lòng can đảm tông đồ của hai người con này của vùng Cận Đông. Vì tình yêu đối với Chúa Kitô, hai vị đã bỏ quê hương, không lo lắng trước các khó khăn của cuộc du hành dài và các hiểm nguy cũng như các nghi ngờ có thể gặp, và đã đến Roma. Nơi đây các vị đã là những người loan báo và chứng nhân của Tin Mừng giữa dân chúng, và đóng ấn sứ mệnh đức tin và lòng bác ái của mình với cuộc tử đạo.

Ngày này hai thánh Phêrô và Phaolô trở lại trong tinh thần  giữa chúng ta, các vị rong ruổi trên các con đường của thành phố này, gõ cửa nhà của chúng ta, nhưng nhất là gõ cửa con tim chúng ta. Các ngài muốn một lần nữa đem Chúa Giêsu, tình yêu thương xót, sự ủi an và hoà bình của Chúa Giêsu tới cho chúng ta. Chúng ta hãy tiếp nhận sứ điệp của các ngài! Chúng ta hãy lấy chứng tá của các ngài làm kho tàng của mình. Đức tin ngay thẳng và vững vàng của thánh Phêrô, con tim vĩ đại và hoàn vũ của thánh Phaolô sẽ giúp chúng ta là các kitô hữu tươi vui, trung thành với Tin Mừng và cởi mở cho sự gặp gỡ với mọi người.

ĐTC cũng nhắc cho mọi người biết trong thánh lễ ban sáng ngài đã làm phép các dây Pallium của các Tổng Giám Mục được chỉ định trong năm qua thuộc nhiều nước. Ngài chào và chúc mừng các vị, cũng như thân nhân và những người tháp tùng các vị hành hương tới Roma. ĐTC khích lệ các vị tươi vui tiếp tục sứ mệnh phục vụ Tin Mừng trong niềm hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, đặc biệt là với Ngai Toà thánh Phêrô, như dấu chỉ dây Pallium diễn tả. ĐTC cũng chào phái đoàn Giáo Hội Chính Thống do Đức Thượng Phụ Bartolomaios Giáo chủ chính thống Costantinopoli gửi sang tham dự thánh lễ hai thánh Bổn Mạng của Giáo Hội Roma. Sự hiện diện của phái đoàn là dấu chỉ các mối dây huynh đệ giữa hai Giáo Hội chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện để các mối dây liên kết hiệp thông và làm chứng tá chung ngày càng mạnh mẽ hơn.

Chúng ta hãy phó thác toàn thế giới và đặc biệt thành Roma này cho Đức Trinh Nữ Maria, Sự cứu rỗi của dân Roma, để nó có thể luôn tìm thấy nơi các giá trị tinh thần và luân lý nền tảng phong phú cho cuộc sống xã hội và sứ mệnh của nó tại Italia, trong Âu châu và trên thế giới.

Tiếp đến ĐTC đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Toà Thánh cho mọi người.



(Linh Tiến Khải, RadioVaticana 29.06.2016)

Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức XVI – 65 năm phục vụ Giáo hội trong thiên chức Linh mục


Lễ hai thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ năm nay (2016) là ngày kỷ niệm 65 năm Đức nguyên giáo hoàng Biển đức, một trong những thần học gia vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, được lãnh nhận thiên chức Linh mục.
PopeFrancis-PopeBenedictXVI-01.jpg

Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức XVI sinh ngày 16 tháng 4 năm 1927 tại nước Đức, trong một gia đình bình dân và đạo đức. Ngài đã  khám phá ra vẻ đẹp và chân lý nơi Chúa Kitô phần lớn là nhờ ảnh hưởng của gia đình luôn sống tốt lành và cậy trông vào Chúa, gắn bó với Giáo hội trong mọi hoàn cảnh. Ngày 29-6-1951, ngài được nhận lãnh thiên chức linh mục cùng với người anh của mình là Đức ông George Ratzinger. Ngài đã góp phần đáng kể cho Công đồng Vaticanô II trong tư cách chuyên viên. Ngày 25-3-1977, Đức Phaolô VI đã đặt ngài làm Tổng giám mục München và Freising. Cũng trong năm 1977, tại Công nghị hồng y vào ngày 27-6, Đức Phaolô VI nâng ngài lên hàng hồng y. Ngày 25-11-1981, Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, Chủ tịch Ủy ban Kinh Thánh và Ủy ban Thần học.

Sau khi Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời, ngày 19-4-2005, Đức hồng y Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo hoàng, lấy tước hiệu là Bênêđictô XVI. Lời đầu tiên vị tân giáo hoàng gửi đến toàn thể thế giới là: “Anh chị em thân mến, sau vị giáo hoàng vĩ đại Gioan Phaolô II, các hồng y đã bầu chọn tôi, một người thợ đơn sơ và khiêm hạ làm việc trong vườn nho của Chúa. Tôi cảm thấy được an ủi vì niềm tin rằng Chúa có thể làm việc và hành động ngay cả với những phương thế bất toàn, và trên hết mọi sự, tôi phó thác mình cho lời cầu nguyện của anh chị em”. Trong Thánh Lễ khai mạc sứ vụ giáo hoàng, Đức Bênêđictô XVI nói với mọi người tham dự và với cả thế giới: “Mọi ý thức hệ về quyền lực đều hành động như nhau. Những ý thức hệ ấy biện minh cho việc tiêu diệt bất cứ cái gì có thể cản đường tiến bộ và giải phóng nhân loại. Còn Thiên Chúa, Đấng đã nên Chiên (xá tội), lại nói với chúng ta rằng: thế giới được cứu độ nhờ Đấng chịu đóng đinh trên thập giá, chứ không phải nhờ những kẻ đóng đinh tha nhân”. Rồi ngài nói thêm: “Xin cầu nguyện cho tôi để tôi không vì sợ hãi sói dữ mà bỏ trốn”.

Cuộc đời 65 năm phục vụ như Linh mục, Giám mục, Hồng y, rồi Giáo hoàng và ngày nay là nguyên Giáo hoàng, trong những giai đoạn sáng tối khác nhau của lịch sử và Giáo hội, nhưng Đức nguyên Giáo hoàng Biển đức vẫn luôn là “một con người hiện thân của sự thánh thiện, một con người của hòa bình và con người của Thiên Chúa” như Đức Thánh Cha Phanxicô nhận xét. Ngài luôn là tấm gương sáng cho các Linh mục và toàn thể Giáo Hội về lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội, về đời sống cầu nguyện và sự khiêm nhường.

Ngay từ ngày đầu của đời Linh mục, Đức Biển đức XVI đã xác tín thiên chức Linh mục là một thánh chức, qua đó Thiên Chúa biến một con người tầm thường thành quà tặng cho nhân loại và hành động nhân danh Người. Linh mục không cô đơn lẻ loi, nhưng có các thánh đồng hành, các thánh trên trời cũng như các thánh đang sống ở trần gian, những tín hữu hôm nay và ngày mai luôn nâng đỡ và đồng hành với các Linh mục. Linh mục được trở nên bạn của Chúa Giêsu, được gọi ở cùng Người và loan truyền sứ điệp của Người. Câu hỏi Chúa Giêsu nói với Phêrô: con có yêu mến Ta không, được Đức Biển Đức suy tư như là câu hỏi cho chính mình, để rồi cuộc đời ngài được định nghĩa như “tìm kiếm Đấng yêu thương” trong suốt cuộc đời phục vụ của Linh mục cũng như nghiên cứu giảng dạy thần học. Thiên Chúa là Đấng ngài yêu mến ao ước, gắn bó kết hiệp và tin tưởng.

Cuộc đời Linh mục của Đức Biển Đức là một cuộc đời cầu nguyện, chìm sâu trong sự kết hiệp với Thiên Chúa. Không phài chỉ đến khi từ chức, nghỉ hưu, rút về đan viện trong nội thành Vatican ngài mới bắt đầu cuộc sống chiêm niệm cầu nguyện, nhưng trong suốt cuộc đời Linh mục, cuộc đời của một thần học gia đương thời lỗi lạc nhất, ngài đã là một chuyên gia cầu nguyện. Thật không sai khi Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong lời giới thiệu của cuốn sách “Dạy và học tình yêu Thiên Chúa” được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 65 Linh mục của Đức Biển Đức: điều căn bản và quan trọng nhất không phải là giải quyết các công việc ngày qua ngày, nhưng là cầu nguyện không ngừng nghỉ cho người khác, cả hồn và xác, như Đức nguyên giáo hoàng Biển đức”. Đức Thánh Cha Phanxicô gọi ngài là một “thần học gia quỳ gối”, vì trước khi là thần học gia lỗi lạc và thầy dạy đức tin ngài đã thật sự tin, thật sự cầu nguyện. Ngài là hiện thân mẫu mực của hoạt động của Linh mục là đâm rễ sâu trong Chúa. Đức Biển đức cho thấy cầu nguyện là yếu tố quyết định và là điều thế giới đang cần.

Là một thần học gia lỗi lạc và đã là Giáo hoàng đứng đầu Giáo hội, nhưng Đức Biển đức còn cho thấy lòng khiêm nhường tuyệt đối của ngài. Khi ngài cảm thấy sức khỏe không cho phép ngài tiếp tục sứ vụ thánh Phêrô, ngài đã khiêm nhường can đảm từ chức để đi vào đời sống cầu nguyện. Mới đây trên chuyến bay trở về Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời câu hỏi: có chăng 2 Đức giáo hoàng, nhắc lại lời của Đức Biển đức khi tuyên bố từ chức: “Trong số anh em đây, có người kế nhiệm tôi; tôi hứa vâng phục ngài”. Đức Thánh Cha nhận xét: ngài giữ lời đã nói và rất khôn ngoan.
Khi tuyên bố từ chức, Đức Biển đức đã nói: Thiên Chúa goi tôi “lên núi”, để dành bản thân mình cho việc cầu nguyện nhiều hơn. Nhưng điều này không có nghĩa là bỏ rơi Giáo hội. Nếu Thiên Chúa yêu cầu tôi, thì chính xác là để tôi có thể tiếp tục phục vụ Giáo hội với cùng sự dấn thân và cùng tình yêu mà tôi đã cố gắng dành cho Giáo hội cho đến nay, nhưng trong một cách thức khác thích hợp với tuổi già và sức khỏe của tôi.” Ngày nay trong đời sống âm thầm nơi đan viện, ngài chắc chắn vẫn yêu mến và bảo vệ Giáo hôi như những ngày còn hoạt động trong môi trường nghiên cứu giảng dạy và như những vị lãnh đạo hướng dẫn Giáo hội. Sự hiện diện âm thầm của ngài nhưng vẫn được cảm thấy qua sự thanh tĩnh, bình an, mạnh mẽ, đầy tin tưởng và niềm tin, trung thành và tận hiến, là một điều tốt lành và sức mạnh cho toàn thể Giáo hội. 

(Hồng Thủy Op, RadioVaticana 29.06.2016)