Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2015

Những tội phạm điều răn thứ nhất

Filled under:

Hỏi: xin cha nói rõ những tội nghịch điểu răn thứ nhất phải tránh.


  
Trả lời:

Điều răn thứ Nhất dạy chúng ta phải thờ phượng một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự để được cứu rỗi và hưởng Thánh Nhan Người trên Nước Trời mai sau.Phải thờ lậy Chúa vì đức tin đã cho ta xác tín Người là Đấng đã tạo dựng muôn loài muôn vật hữu hình cũng như vô hình, trong đó đặc biệt có con người là tạo vật được dựng nên " theo hình ảnh của Chúa" với hai đặc tính có lý trí và ý muốn tự do ( free will) mà không một tạo vật nào khác có được.

Qua Ông Mô-sê, Thiên Chúa đã nói với dân Do Thái xưa kia như sau : 

Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta…” (Đnl 5:6-7)

Trên đây là nội dung Điều Răn thứ nhất trong bản Thập Điều (Decalogue) mà Thiên Chúa đã trao cho Ông Môsê để truyền lại cho dân Do thái tuân giữ như Giao Ước của Người với họ để họ được chúc phúc và được sống muôn đời.(Đnl 5).Mười Điều Răn này vẫn được áp dụng cho dân Chúa từ thời Cựu Ước cho đến ngày nay.Nhưng cần phải nói ngay ở đây một lần nữa là sở dĩ Thiên Chúa truyền Lề Luật cho con người tuân giữ là vì phúc lợi của con người chứ tuyệt đối không phải vì lợi lộc nào của Chúa, khiến Người phải ngăn cấm con người không được làm hay phải làm những điều ghi trong Mười Điều Răn mà con người phải thi hành để được chúc phúc. 

Chúa Giêsu đã nhắc lại điều răn thứ nhất và cũng là điều răn quan trọng nhất khi Chúa trả lời cho một luật sĩ thuộc nhóm Pharisi và Xa đốc xưa kia như sau: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất.” (Mt 22: 37-38). 

Yêu mến một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự có nghĩa là chỉ tôn thờ và yêu mến Người trên hết mọi thần linh khác của những người không chia sẻ một niềm tin với người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo.Nói khác đi, là tín hữu Công giáo thì không được tin và kêu cầu đến một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa Ba Ngôi ra. Chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất, Đấng cầm quyền cại trị vũ trụ và sự sống của mọi tạo vật, và nhất là đã cứu chuộc con người nhờ Chúa Kitô, tức Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm Con Người để "hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người."( Mt 20: 28) )

Như vậy, ngoài Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta phải tôn thờ, Đức Trinh Nữ Maria, dù là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos), Mẹ của Giáo Hội, Thánh Cả Giuse cùng các Thánh nam nữ khác trên Thiên Đàng chỉ là những mẫu gương sáng ngời cho ta noi theo để nên thánh và nhờ cậy cầu bầu trước Tòa Chúa mà thôi, chứ không phải là đối tượng chính của lòng tin và tôn thờ (adoration). Đối tượng chính của lòng tin yêu và tôn thờ phải là Thiên Chúa Ba Ngôi, trong khi chúng ta cũng yêu mến và tôn kính (veneration) Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse và các Thánh nam nữ trên Trời nữa.

Do đó, từ góc độ thần học và đức tin này, mọi người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo hội Công Giáo cần phải tránh xa mọi hình thức tin tưởng hay trông cậy trái nghịch với Điều răn thứ nhất trên đây thể hiện qua những thực hành sai trái và có tính cách mê tín dị đoan sau đây:

1.
 Thờ các ngẫu tượng (idolatry):
Điều răn thứ nhất cấm tôn thờ bất cứ thần linh (idols) nào ngoài Thiên Chúa ra như thờ thần cây đa, thần bếp, thần hỏa, thần nước, thần tài,v.v.Mặt khác, người Công giáo cũng không thể nói ba phải rằng Đạo nào cũng tốt, Thần linh nào cũng đáng kính , nên có thể đem trưng bầy trên ban thờ ở nhà ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ chen lẫn với các tượng Đức Phật, Đức Không Tử, Lão Tử, Mohammeh (của Đạo Hồi) v.v. Chúng ta tôn trọng niềm tin của các tín đồ khác, nhưng không cùng chia sẻ niềm tin của họ về Đấng họ tôn thờ, như chúng ta tin và tôn thờ Thiên Chúa của chúng ta.

Do đó, người Công giáo mà trưng ảnh tượng bất cử thần linh nào khác là lỗi phạm điều răn thứ nhất dạy thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi.Lại nữa, nếu vì xã giao mà phải tham dự các buổi lễ của các tôn giáo khác, hay đến viếng người chết ở nhà quàn (funeral home), người Công giáo không được phép bái lạy các tượng Đức Phật, Đức Khổng Tử hay bất cứ ảnh tượng nào mà các tín hữu bạn tôn thờ. Đó là niềm tin của họ, chúng ta tôn trọng, nhưng không chia sẻ niềm tin với họ như đã nói ở trên.

Cũng cần nói thêm là, để tỏ lòng tôn kính, tôn thờ một mình Chúa trên hết mọi thần thánh, kể cả Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse, người Công giáo, mỗi khi vào nhà thờ, phải bái quì thờ lậy Chúa Kitô đang hiện diện cách bí nhiệm cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi và trong bí tích Thánh Thể nơi Nhà Tạm ( Tabernacle) trước khi quay sang chỗ trưng bày thánh tượng Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse hay Thánh Nam nào Nữ khác. Đây là hành vi đức tin thể hiện lòng tôn thờ một mình Thiên Chúa Ba Ngôi trên hết mọi thần thánh khác, và chắc chắn làm đẹp lòng Chúa, Đức Mẹ và các Thánh Nam nữ đang chầu trực, ngợi khen Chúa trên Thiên Đàng.

2- Tội phạm thánh ( Sacrilege
) : 
Được coi là lỗi đức thờ phượng, tức điều răn thứ nhất những hành vi sau đây :

a
- đang khi có tội trọng, chưa được tha qua bí tích hòa giải mà dám rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô , hay cử hành thánh Lễ Tạ Ơn (linh mục) đều mắc tội phạm thánh. (x. giáo luật số 916) 
Thánh Phaolô cũng nói rõ tội này như sau " Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh này và uống Chén của Chúa cách bất xứng thì cũng phạm đến Mình và Máu ChúaAi nấy phải tự xét mình ,rồi hay ăn Bánh và uống Chén này," ( 1 Cor 11: 27-28)

b
- Ai ném bỏ Mình Thánh hay lấy Mình Thánh về nhà để làm việc mê tín là phạm thánh. . và bị vạ tuyệt thông tiền kết ( x giáo luật số 1367). Ngoài ra, cũng kể là phạm thánh những hành vi bất kính như đạp chân lên, hay quăng vào thùng rác các ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các Thánh hoặc các đồ dùng đã được làm phép như bình đựng Mình Thánh ( Ciborium) chén lễ ( chalice) khăn thánh ( purificator, corporal) ..Mặt khác, cũng được kể là phạm thánh ai hành hung Đức Thánh Cha ( mắc vạ tiền kết, giáo luật số 1370 & 1) và các vị có chức thánh hay lời khấn như linh mục, Giám mục, tu sĩ .
c
- Sau nữa, cũng được coi là tội phạm thánh những ai phá hủy nơi thờ phượng như nhà thờ,Tu viện và nhà nguyện công ( Public chapel) kể cả giết người và làm việc ô uế (dâm dục) trong nơi thờ phượng. Giết người và làm chuyện ô uế ở nơi khác thì chỉ có tội sát nhân và tội dâm dục, nhưng nếu phạm các tội này ở nơi thờ phượng thì mắc thêm tội phạm thánh nữa. 
3- Bói toán và ma thuật 
(divination and magic): tất cả những hình thức mê tín như bói toán, coi chỉ tay, bói bài, tử vi (horoscope) chiêm tinh, (astrology) phong thủy địa lý, phù thủy (sorcery) đồng bóng…. đều là các việc lỗi nghịch điều răn thứ nhất, tức vi phạm niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng duy nhất, Chủ Tể của mọi loài, và là Đấng luôn quan phòng đời sống con người và vạn vật theo sự khôn ngoan và nhân hậu tuyệt vời của Ngài. Vì thế, khi tin và thực hành các hình thức mê tín trên đây, người ta đã tìm đến một hay nhiều quyền lực khác trong vụ trụ hữu hình này thay vì chỉ tin cậy một mình Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, người tín hữu Chúa Kitô phải tránh xa các hình thức mê tín trên đây, vì làm những việc này là chứng tỏ không tuyệt đối tin tưởng vào một mình Chúa là Đấng duy nhất ban phát mọi ơn lành và làm chủ vận mạng con người và vũ trụ.(SGLGHCG, số 2115-2117). Thánh Kinh đã lên án tội bói toán, phù thủy, và thờ ngẫu tượng, đồng bóng như sau: 
giữa anh em không được thấy ai làm lễ thiêu con trai, con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thủy, bỏ bùa, ngồi đồng cốt, gọi hồn. Thật vậy, nếu ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Đức Chúa,và chính vì những điều ghê tởm đó mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh em.” (Đnl 18: 10-12).

Hoặc:

Khi người đàn ông hay đàn bà nào có ma nhập thần ám thì phải bị xử tử, người ta sẽ ném đá chúng, máu chúng đổ xuống đầu chúng.” (Lêvi 20:27) và đàn bà phù thủy, ngươi không được để cho sống.” (Xh 22:17)

Tuy nhiên, những lời dạy trên đây chỉ nhằm nhấn mạnh đến việc cấm làm những chuyện mê tín trái đức tin như gọi hồn người chết, đồng bóng, phù thủy ...chứ không đòi phải thi hành theo nghĩa đen là giết hại ai làm những việc đó.

4-Mê tín dị đoan (superstitions
): 
Phải kể là tội nghịch điều răn thứ nhất các hình thức mê tín dị đoan có trong mọi nền văn hóa như tin con số 9, kiêng số 10, số 13, kiêng chụp hình 3 người, tin ra ngõ gặp đàn bà thì xui, mèo đến nhà thì khó, chó đến thì sang… đeo bùa ngãi, xin sâm, xin quẻ, tin 12 con vật cai trị vận mạng con người và vũ trụ v.v. Những tin tưởng này đều tuyệt đối không có cơ sở giáo lý, và đức tin nào, nên người tín hữu Chúa Kitô phải xa tránh mọi tin tưởng và thực hành sai trái nói trên để tuân giữ cách nghiêm túc Điều răn thứ nhất dạy ta phải tin và thờ phượng một mình Thiên Chúa Ba Ngôi mà thôi. 

Tóm lại, mọi hình thức đưa đến tin tưởng vào một quyền lực hay thần linh nào ngoài Thiên Chúa ra đều là tội phạm đến Thiên Chúa là Đấng duy nhất ta phải tôn thờ và cầu xin mọi ơn lành hoặc giúp tránh những sự dữ, tai họa cho hồn xác trong cuộc sống trên trần thế này. Nhưng cho được xin ơn Chúa cách hữu hiệu, Giáo Hội dạy mọi tín hữu hãy chạy đến cùng Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse và các Thánh Nam Nữ để xin các ngài nguyện giúp cầu thay cho ta trước Tòa Chúa. Nghĩa là tuyệt đối không thể nhờ thầy bùa, thầy pháp, thầy bói, thầy địa lý, phong thủy hay chiêm tinh gia nào có thể giúp xoay chuyển được số mệnh hay giúp tránh tai ương, hoạn nạn cho con người ở đời này. Ấy là chưa nói đến những tai họa bất ngờ có thể xảy ra chỉ vì tin và nghe lời các thầy này và các tiên tri giả ( đầy rẫy ở khắp nơi) chỉ vẽ tầm bậy, khiến đưa chân vào hiểm họa không ngờ nữa. Cụ thể, cách nay hơn mười năm, một nhóm 20 tín đồ của giáo phải Cổng Trời ( Heaven Gate) bên California đã tự sát tập thể vì nghe lời "giáo chủ" của họ "tiên tri " tầm bậy là sắp tận thế rồi nên phải chết nhanh đi để được lên Thiên Đàng !

Người tín hữu Công giáo phải quyết tâm xa tránh những tin tưởng và thực hành sai trái nói trên để sống đẹp lòng Chúa và nói lên niềm tin của mình vào Một Thiên Chúa toàn năng, đầy lòng nhân ái, và là Nguồn duy nhất ban phát mọi ơn lành, an vui và hạnh phúc cho con người.
Hỏi: xin cha giải thích lại những tội nghịch điểu răn thứ bảy và thứ mười.
 
 Trả lời: 

Trong một bài trước, tôi đã có dịp nói về hai điều răn này. Nay xin được nói rõ thêm những tội phạm lỗi hai điều răn này như sau:

Trong Mười Điều Răn Của Chúa thì, hai điều răn thứ bảy và mười có liên hệ với nhau vì cùng cấm con người không được lấy hay ước muốn lấy của người khác những gì không thuộc sở hữu của mình.

Riêng giới răn thứ mười có liên hệ đến hai giới răn thứ bảy và thứ chín cấm lấy của người và cầm thèm muốn vợ hay chồng của người khác ( giới răn thứ chín). Trong thực tế thì tội lỗi điều răn thứ bảy và thứ mười là những tội con người ở khắp mọi nơi đã và đang phạm ở mức độ qui mô và không kém nghiêm trọng so với các tội khác.Cái lầm lớn lao của rất nhiều người là cho rằng lấy của chánh phủ hay của các công ty lo dịch vụ xã hội như hãng bảo hiểm, xe , nhà v.v là không có tội ! Vì thế người ta cứ an tâm khai gian, chứng dối để trốn thuế, và lấy tiền của người khác cách sai trái với lương tâm và luật công bằng của Chúa..

Thực ra, phải hiểu rằng Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương nhưng cũng rất công bằng khi phán đoán con người.Vì thể tôn trọng công bằng là điều đẹp lòng Chúa cũng như thi hành bác ái để cụ thể nói lên lòng yêu mến Chúa, là Đấng yêu thương mọi người và muốn con người phải yêu thương, giúp đỡ và an ủi nhau trong cuộc sống. Vì thế thực thi bác ái là rất điều đẹp lòng Chúa vì như thế chứng tỏ cách hùng hồn con người biết cảm thông sự đau khổ và thiếu thốn tinh thần và vật chất của anh chị em mình, không phân biệt mầu da, ngôn ngữ ở khắp nơi.

Luật công bằng của Chúa đòi buộc ta phải tôn trọng tài sản, tiền bạc và danh dự của người khác như chính của riêng mình. Đó là lệnh truyền của Chúa trong Bản Thập Giới tức Mười điều răn mà giáo lý của Giáo Hội nhắc lại như sau:

“ Cấm
 lấy hoặc giữ của cải của tha nhân cách bất công hoặc làm hại tài sản của tha nhân bất cứ cách nào.”(SGLGHCG, số 2401).
Luật này dựa trên chính lời Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái xưa kia sau khi họ được giải thoát khỏi Ai Cập: “Ngươi không được trộm cắp.” (Xh 20:15)

Liên quan đến giới răn này,Thiên Chúa cũng cấm con người " không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò, con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta . ( x Xh 20:17; Đnl 5:21)

Như thế điều răn thứ mười không những có liên hệ đến điều răn thứ bảy vì cùng cấm con người không được lấy hay thèm muốn, ước ao muốn lấy bất cái gì thuộc sở hữu của người khác như vợ, chồng của người khác và mọi vật không thuộc quyền sở hữu của mình. Về một khía cạnh, điểu răn thứ mười có liên hệ đến giới răn thứ chín cấm " thèm muốn vợ (hay chồng) của người khác", vì thèm muốn như vậy sẽ dẫn đến thông dâm ( fornification) ngoại tình (adultery) và hiếp dâm ( rape) là những tội nặng thuộc giới răn thứ sáu phải tránh. Lại nữa, thèm muốn của cải của người khác cũng dẫn đến trộm cắp và lừa đảo để chiếm hữu tài sản hay tiền bạc của người khác cách trái phép. 

Tuy nhiên, nếu thấy người khác giầu có, khỏe mạnh và thành công trong xã hội mà mình cũng ước muốn được như họ bằng phương tiện chính đáng như cố gắng học hành, săn sóc sức khỏe và làm ăn lương thiện để có tiền thì không những không có tội gì mà còn được khuyến khích trong ước muốn tốt đẹp này nữa. Chỉ khi nào ước muốn lấy cái gì của ai, rồi sinh lòng ghen ghét người khác hơn mình về danh vọng, địa vị xã hội và tiền bạc thì đó mới là điều phải tránh vì lỗi đức bác ái và công bằng.

Giáo lý của Giáo Hội nói rõ về nội dung giới răn thứ mười như sau:

Điều răn thứ mười cấm chỉ sự thèm muốn, tức ước ao của cải trần gian cách vô độ; nó cũng cấm tính tham lam thái quá, sinh ra từ sự đam mê vô độ, sự giầu có và quyền lực do sự giầu sang mang lại. Điều răn này cũng cấm để lòng phạm những điều bất công, làm thiệt hại tài sản của tha nhân." ( x. SGLGHCG số 2536) Nghĩa là không ai được phép lấy hay ước muốn lấy bất cứ của gì , vật gì kể cả vợ hay chồng của người khác.

Sau này, khi trả lời cho người thanh niên giầu có đến hỏi Chúa Giêsu, xem anh ta phải làm gì để được sống đời đời, Chúa cũng đã nhắc lại lệnh cấm trên “Ngươi không được trộm cắp...”. (Mt 19:18). Trộm cắp Chúa nói ở đây bao gồm mọi hình thức lấy của người khác những gì thuộc sở hữu của họ như tiền bạc, đồ vật, đất đai, nhà cửa, xe cộ, máy móc... Như thế đủ cho thấy giới răn thứ bảy và thứ mười quan trọng thế nào trong đời sống đức tin của người tín hữu Chúa Kitô. Nếu không quyết tâm đi tìm Chúa và hạnh phúc Nước Trời, mà chỉ ham mê tìm kiếm những sự đời này như tiền bạc, danh vọng và mọi thú vui vô luân, vô đạo thì hãy suy gẫm lời Chúa sau đây:

" ..Người nào được lợi lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình hay thiệt thân, thì nào được ích lợi gì ? ( Lc 9:25)

Thử hỏi: có mấy ai được lợi lãi cả và thế gian này đâu. Nhưng cho dù có người chiếm được mọi của cải và danh vọng trên trần gian này, mà cuối cùng mất sự sống, mất linh hồn vì không được cứu rỗi thì những lợi lãi to lớn kia có bù đắp được không, hỡi những ai khờ dại, chỉ ham mê tìm kiếm lợi lãi hư vô ở đời này mà quên lãng tìm kiếm sự sang giầu vĩnh cửu của Nước Trời ?

Do đó, phải tuân giữ các giới răn thứ bảy và thứ mười vì những lý do sau đây: 

1.
 Tôn trọng đức công bình (justice): Thiên Chúa là Đấng công chính và giầu tình thương (a just and merciful God). Ngài giầu lòng xót thương, nhưng không thể chấp nhận bất cứ điều gì là bất công và gian dối. Ngài phán đoán con người dựa trên hai tiêu chuẩn công bình và bác ái. Do đó, ai không yêu thương và thực thi công bình, thì chắc chắn không thể đẹp lòng Chúa và thuộc về Người là tình thương và là chính sự công bình. Đức công bình đòi buộc mọi người phải tôn trọng đúng mức tài sản, danh dự và tính mạng của người khác như chính mạng sống, danh dự và tài sản của mình. 
2.
 Quyền tư hữu chính đáng mà mọi người được hưởng trong tình thương và công bình của Chúa, là Đấng đã ban phát nhưng không mọi của cải, tài nguyên thiên nhiên cho con người hưởng thụ miễn phí (gratuitous). Về quyền này, giáo lý của Giáo Hội dạy như sau: 
Tài sản trong vũ trụ là để dành cho tất cả loài người. Tuy nhiên, trái đất được phân chia giữa con người với nhau, để bảo đảm an toàn cho cuộc sống của mọi người khỏi nguy cơ đói khổ và bạo động. Sự tư hữu tài sản là điều chính đáng, nhằm bảo đảm tự do và phẩm giá của mọi người và cũng để giúp nhau đáp ứng, những nhu cầu căn bản của riêng mình và lo cho nhu cầu của những người thuộc trách nhiệm coi sóc của mình….. . Quyền tư hữu , thủ đắc cách chính đáng, không ảnh hưởng gì đến quyền sử dụng quà tặng chung, là trái đất mà Chúa ban cho toàn thể nhân loại. Mặc dù mục đích sử dụng của cải chung vẫn giữ ưu thế nhưng lợi ích chung vẫn đòi hỏi tôn trọng tư hữu và quyền có tư hữu ” (Sđd, số 2402- 03) 

Như thế, Giáo Hội nhìn nhận quyền tư hữu tài sản của con người và mọi vị phạm đến quyền này đều trái với đức công bình đòi buộc mọi người phải tôn trọng tài sản, danh dự và mạng sống của người khác. Chế độ cai trị nào không tôn trọng quyền tư hữu của người dân để cưỡng chiếm đất đai, nhà của của dân hay của các giáo hội và cơ quan từ thiện - đều vi phạm quyền căn bản này của Thiên Chúa ban tặng mà mọi xã hội loài người văn minh phải tôn trọng vì phúc lợi chân chính của con người như Giáo Hội có bổn phận nhắc nhở trên đây 

Trong tinh thần đó, những hành vi sau đây được coi là vi phạm điều răn thứ bảy cấm lấy của người:
 
   a. Ăn cắp tiền bạc, và chiếm đoạt những gì thuộc quyền sở hữu của người khác như đất đai, nhà cửa, xe tầu, ruộng vườn, quần áo, đồ vật gia dụng v.v Như vậy ai chiếm giữ đất đai, nhà cửa, của người dân, nơi thờ phượng của các giáo hội là vi phạm quyền tư hữu chính đáng được pháp luật của xã hội văn minh ở khắp nơi nhìn nhận và đòi hỏi phải tôn trọng. Không thể viện bất cứ lý do nào để bênh vực cho sự chiếm hữu bất hợp pháp này. Ai a dua bênh vực cho sự cưỡng chiếm này là cộng tác vào sự bất công, và luật pháp rừng rú.

   b. Bóc lột sức lao động của người dân mà không đền bù xứng đáng. Chủ nhân các công ty hay hãng xưởng mướn công nhân mà trả lương không đúng luật lao động và tiêu chuẩn chuyên môn của người làm công cho mình là lỗi luật công bình. Thí dụ, bóc lột người lao động không có giấy tờ cư trú hợp pháp (undocumented workers), để trả lương họ dưới mức qui định của luật lao động. Hoặc bắt họ làm thêm giờ mà không trả tiền tiền phụ trội cho họ. Cũng lỗi điều răn thứ bảy, những người làm cân đo không chính xác để đong bán hàng hóa sai cân lượng với mục đích kiếm thêm nhiều tiền lời.

Giáo lý Giáo Hội cũng liệt kê những việc làm trái với điều răn thứ bảy như sau :

Cũng kể là bất chính về mặt luân lý, những việc làm như đầu cơ tích trữ để thay đổi giá cả cách giả tạo để thủ lợi và làm thiệt hại người khác, hối lộ để làm sai lệch những quyết đoán của người thi hành luật pháp; lấy làm củariêng hoặc sử dụng cho riêng mình những tài sản của xã hội hoặc của xí nghiệp; hoặc làm ăn cẩu thả gây thiệt hại cho người thuê mình; gian lận thuế, giả mạo các hóa đơn hoặc các chi phiếu, chi tiêu lãng phí; cố ý gây thiệt hại cho tài sản tư hoặc công đều trái với luật luân lý và buộc phải bồi thường.” ( SGLGHC số 2409).

Cũng kể là trái nghịch điều răn thứ bảy mọi hành vi lừa đảo, làm hàng giả, lừa dối người tiêu thụ để kiếm nhiều tiền hoặc khai gian số giờ lao động để lãnh lương đầy đủ.

Cụ thể áp dụng như sau:

   
a. Ở Mỹ, chế độ trợ giúp welfare, food stamps, housing... được đặt ra nhằm trợ giúp cho những người có nhu cầu thiếu thốn thực sự về các quyền lợi nêu trên. Do đó, khai gian để hưởng những trợ cấp này, là làm thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của những người có nhu cầu thực sự đáng được hưởng. Như thế chắc chắn đây là tội gian lận, lấy của công, nghịch điều răn thứ bảy cấm lấy của người khác. Ngoài ra, những người giả ly dị để xin trợ cấp single parent, kể cả những người làm hôn thú giả để lấy tiền của những người muốn ra nước ngoài định cư đều mắc tội nghịch hai giới răn thứ bảy và thứ tám (cấm làm chứng dối, gian trá) 

   
b. Cũng kể là lỗi điều răn thứ bảy, mọi hình thức cờ bạc, cá độ đưa đến ăn thua tiền bạc, làm thiệt hại cho kinh tế và hạnh phúc gia đình, vì những số tiền thu được ở đây đều trái với đức công bằng. Không thể dùng tiền cờ bạc để giúp xây nhà thờ, trường học , cô nhi viện... vì mục đích tốt không thể biện minh cho phương tiện xấu. 

   
c. Sau hết, những việc làm như lỗi lời hứa, không thi hành những khế ước (contract) về kinh tế, thương mại, lao động… mà đôi bên đã ký kết, khiến gây thiệt hại công bằng cho người khác. Thêm vào đó, đặc biệt phải kể thêm những kẻ buôn bán người, dưới chiêu bài hôn nhân hay hứa cho công ăn việc làm có lương cao, nhưng thực chất chỉ là để buôn bán họ cho những nhu cầu bất chính của kẻ vô luân, vô đạo, đều là những việc làm bất chính lỗi điều răn thứ bảy vì đã xúc phạm nặng nề nhân phẩm và sức lao động của người khác để kiếm lợi cho riêng mình. 
Tất cả những tội phạm điều răn thứ bảy đều phải được đền bù, hay hoàn trả theo công bằng giao hoán (commutative justice) đòi buộc nghiêm ngặt “phải bảo toàn mọi quyền tư hữu , phải trả các món nợ cũng như phải chu toàn các nghĩa vụ đã tự do cam kết với nhau. Thiếu đức công bằng giao hoán sẽ không thể có bất cứ hình thức công bằng nào khác.” (Sđd, số 2411) 

Nói khác đi, không thể lấy hay làm thiệt hai tài sản, danh giá của ai rồi đi xưng tội là xong được. Dĩ nhiên phải xưng tội nhưngphải đền bù thiệt hại gây ra cho người khác cách cân xứng và trả lại cho người ta số tiền hay đồ vật đã lấy cách sai trái thì mới được tha tội. Cụ thể: công khai nói xấu, làm mất thanh danh của ai thì phải công khai xin lỗi người đó. Lấy trộm tiền, đồ vật, cưỡng chiếm đất đai, nhà cửa của ai thì phải trả lại cho người ta theo công bằng giao hoán nói trên. Nghĩa là không thể đọc năm ba kinh hay lần chuỗi 50 mà đền bù được những gì đã lấy của người khác. Các cha giải tội đều có bổn phận nói cho hối nhân biết luật công bằng đòi buộc phải trả lại cho người khác cách nào thuận tiện, kín đáo những gì mình đã lấy của người ta để được tha tội này như giáo lý của Giáo Hội dạy trên đây.

Tóm lại, hai giới răn thứ bảy và thứ mười cấm lấy hoặc ước muốn lấy bất của vật gì thuộc quyền sở hữu của người khác như đã giải thích trên đây. Người tín hữu Chúa Kitô cần thiết phải làm nhân chứng cho Chúa trong một thế giới quá gian tà, trộm cắp, và bất lương này bằng cách tuân giữ nghiêm ngặt hai giới răn trên để làm gương cho người khác và giúp ích cho phần rỗi của mình.




Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.