Thứ Năm, 5 tháng 4, 2018

TÁC DỤNG CỦA NỤ CƯỜI

Filled under:

TÁC DỤNG CỦA NỤ CƯỜI
trong đời sống gia đình & cộng đoàn

Một điều rất cần thiết  cho cuộc sống chung, đó là nụ cười.

Tự bản chất, nụ cười không ăn được,  nhưng nó lại làm cho ta sống, sống thanh thản, vui tươi và hạnh phúc.

Trong phòng khách, người ta thường chưng hoa. Hoa làm cho căn phòng trở nên xinh xắn, tươi mát. Thế thì, nụ cười chính là hoa nở trên môi.

John Creasy, một cây bút hài nổi tiếng của Mỹ, đã phân tích về nụ cười như sau : “Về mặt hình thái học, nụ cười là một cảm giác thư thái bao trùm toàn thân và chỉ đọng lại một chỗ. Về mặt luân lý, nụ cười là điều tốt nhất sau 10 giới răn. Về mặt lý thuyết, nụ cười đánh đổ mọi luận lý trong cuộc sống. Về mặt nghệ thuật, nụ cười là tràng pháo của tâm hồn.

Một người không biết cười thì ở chung với họ là một lầm lẫn  tai hại. Một nụ cười đích thức là cửa ngõ của tâm hồn, là lỗ thông hơi của trái tim. Bạn hãy cười khi có dịp, bởi vì trên thế giới này không có gì sưởi ấm cho bằng một nụ cười.

Ngày nay, càng lúc càng có nhiều bằng chứng về giá trị của nụ cười. Trong tác phẩm “Mổ xẻ căn bệnh”, một tác giả Mỹ đã kể lại như sau : Các Bs cho biết ông bị một thứ bệnh vô phương cứu chữa, tuy nhiên ông đã không thất vọng. Với sự giúp đỡ và theo dõi của một Bs, ông tự vạch ra một chương trình chữa trị dựa trên nụ cười và óc khôi hài. Ông mượn  các phim khôi hài về xem, mua các loại sách chọc cười về đọc. Quan trọng hơn cả, ông tìm đến những người bạn có óc khôi hài. Sau một thời gian chữa trị, cơn bệnh tưởng như nan y đã biến mất. Óc khôi hài là liều thuốc bổ cần cho sức khoẻ. Những người thích cười thường ít gặp căng thẳng và thắng vượt căng thẳng cách dễ dàng hơn những người khác. Người hay cười thường được kẻ khác yêu mến, thích gần gũi hơn, muốn sống với. Còn trong đời sống cộng đoàn, tác dụng của nụ cười có thể nói là vô song.

Chỉ có con người mới có khả năng cười và biết cười. Nụ cười đã có từ muôn thuở, nhưng những nghiên cứu về tác dụng của nó chỉ mới được thực hiện gần đây mà thôi. Nụ cười ảnh hưởng trên sức khoẻ con người, nhưng quan trọng hơn, nụ cười làm giảm căng thẳng và giảm áp huyết. Nụ cười và cơn giận không thể đi đôi với nhau. Nụ cười có sức tiêu diệt cơn giận.

Lúc còn là thanh niên, Tổng Thống Abraham Lincoln có dịp giải quyết một cuộc cãi vã giữa hai người bạn. Một trong hai người thấy mình thua lý liền khiêu khích, muốn đấm đá với Lincoln. Với tấm thân hộ pháp của mình, Lincoln nhìn thẳng vào mặt đối phương và nói : “Không công bình chút nào, tôi cao hơn anh cả cái đầu, như vậy để cho công bình. Tôi phải kẻ một đường thẳng ngang vai của tôi và anh chỉ được đấm đá tới tầm ranh ấy mà thôi”. Nghe vậy, người hiếu chiến kia chỉ đã ôm bụng cười và cuộc cãi vã cũng đã được kết thúc bằng một trận cười. Trong cơn giận, con người có thể hoá điên, nhưng lẽ khôn ngoan lại được bày tỏ khi một nụ cười đến đúng lúc.
Tạo bầu khí vui tươi trong trong cộng đoàn và giữ cho nụ cười luôn tươi nở trên môi…là chìa khoá của sức khoẻ và hạnh phúc.

Tôi xin lặp lại một lần nữa : trong phòng khách, người ta thường chưng hoa. Hoa làm cho căn phòng trở nên xinh xắn, tươi mát. Nụ cười chính là hoa nở trên môi. Trong một cộng đoàn, nếu người nào cũng biết cười thì khác nào như hoa được đem cắm khắp mọi nơi mọi chốn. Nụ cười không mất tiền mua nhưng tác dụng của nụ cười là vô song : cho chính mình và cho người khác.



THÔNG CẢM
______________________________________
Vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc (Rm 12, 14)

Tôi đã có dịp đọc cuốn “ No man is an island” của Thomas Merton, cái nhan đề này đã nói lên rất nhiều về nội dung của cuốn sách cũng như về tư tưởng chính yếu của tác giả. Nó chính là một câu trả lời gián tiếp cho những ai chủ trương rằng con người là một thế giới khép kín, là một con vật bị đày đọa, bỏ rơi, một mình đương đầu với số mệnh mù quáng và phũ phàng trong một thế giới mà mọi người và mọi vật khác đều xa lạ nếu không là thù địch với mình.

Nhưng “ No man is an island” (không ai là một hòn đảo). Con người chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực của cuộc sống khi nào nó ý thức được mối tương liên giữa nó với Thiên Chúa, giữa nó với tha nhân. Và tình yêu này chính là lý do hiện hữu của nó. Vì thế, con người chỉ sống đích thực khi nào đáp trả tình yêu đó bằng cách sống như người con Thiên Chúa, và như người anh em đối với tha nhân.

I. BÀI HỌC TRONG THÁNH KINH
Đọc Thánh Kinh chúng ta thấy rõ Thiên Chúa hằng luôn săn sóc đến chúng ta như con ngươi trong mắt Ngài. Chúng ta là con Ngài, có lý nào người cha lại không thương yêu, săn sóc và thông cảm với con cái mình? Chúng ta hãy lần lượt nhìn vào Thánh Kinh để xem Thiên Chúa đã tỏ ra thông cảm với loài người chúng ta như thế nào.
1.      Thiên Chúa thương loài người sa ngã.
         Thiên Chúa đã cho nguyên tổ Adong Evà ở trong vườn Địa Đàng, được hưởng mọi đặc ân hồn xác, nhưng ông bà đã không tuân lệnh Chúa đã cả dám phạm tội không vâng lời đến nỗi Thiên Chúa phải ra hình phạt cho ông bà… Tuy phạt vì tội theo sự công bằng nhưng Thiên Chúa cũng vì thông cảm với sự đau khổ của loài người dưới hình phạt nặng nề đó nên đã sai Đấng Cứu Thế đến để chuộc tội loài người… Nếu không thông cảm với những sự đau khhổ của loài người, đâu Thiên Chúa có sai Đấng Cứu Thế đến ? (x. Stk, 3).
2.      Chúa Giêsu thông cảm với chúng ta:
          Trong sách Phúc Âm, các Thánh ký đều nhất loạt ghi lại những phép lạ Chúa làm để chữa bệnh hồn xác cho các bệnh nhân. Chúa Giêsu còn tỏ ra ba lần thông cảm với sự đau khổ của con người khi Chúa khóc thảm thiết: đó là khóc thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá (Lc 19, 44), khóc thương đứa con trai góa phụ thành Naim khi người ta mang chàng đi chôn (Lc 7, 11- 17), và khóc thương bên mồ Ladarô đã chết bốn ngày (Ga 11,1 -14). Đó là ba trường hợp đặc biệt Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm bề ngoài với những giọt nước mắt nóng hổi như chúng ta.
3.      Mẹ Maria ở tiệc cưới Canna:
         Mẹ Maria cùng được đi dự tiệc cưới với Chúa Giêsu. Theo lệ thường, Mẹ Maria cứ việc ngồi dự tiệc cho vui với tư cách là một người khách dự tiệc, nhưng Mẹ đã lưu ý đến gia chủ, lo lắng cho họ và Ngài  tỏ ra rất thông cảm với sự lo lắng của họ khi giữa tiệc mà hết rượu. Đối với phong tục của người Dothái ăn tiệc phải có nhiều rượu, phải để dư là khác, đàng này giữa bữa mà hết rượu thì cả là một sự nhục nhã cho gia chủ. Cảm thông với sự lo lắng bối rối của họ, Mẹ Maria đã xin Chúa Giêsu can thiệp và lời cầu xin của Ngài đã được chấp nhận trước sự vui mừng của mọi người (Ga 2, 1 – 11)
4.      Lời khuyên của Thánh Phaolô:
         Thánh Tông đồ Phaolô đã đưa ra một học thuyết mới mẻ về thân thể Đức Kitô: Giáo hội là thân thể, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là các chi thể của thân thể ấy, tức là chi thể của nhau. Các chi thể liên lạc mật thiết với thân, với đầu và với nhau, nên anh em có một giây liên lạc với nhau một cách đặc biệt. Vì thế, Thánh Tông đồ đã khuyên chúng ta hãy biết thông cảm với nhau khi ngài nói: hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc (Rm 12,14).

II. QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI ĐỜI
1.      Quan niệm chung của nhân gian:
        Mọi người đều nhận thấy rằng mình không thể sống đơn độc được cả về phương diện vật chất đến tinh thần. Không ai có thể sống tự lập được mà phải nhờ vả nhau. Xã hội cần thiết cho con người để trao đổi cho nhau những nhu cầu vật chất, những tình cảm vui buồn… Nhờ đó, đời sống con người mới quân bình được. Quan niệm này được diễn tả ra qua những câu ca dao, tục ngữ:
* Một con ngựa đau cả tàu chê cỏ.
* Lá lành đùm lá rách.
* Chị ngã em nâng.
* Máu chảy ruột mềm.
* Không ai khen đám cưới, ai nỡ cười đám ma.
2.      Sự thông cảm cần thiết:
         Sống ở đời, con người cần có sự thông cảm để nâng đỡ nhau về mọi phương diện. Sự thông cảm cần cho con ngừơi về cả phương diện vật chất lẫn tinh thần, vì con người là một tinh thần nhập thể, có xác, có hồn cần được thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần.
a. Về phương diện vật chất:
          Không ai được phép sống cho mình mà bỏ quên người khác. Tất cả của cải vật chất trên thế giới này được dành cho mọi người, không ai được chiếm độc quyền. Nhưng trong thực tế của cải trên thế giới không được chia đồng đều mà đã rơi vào một số người để họ tòan quyền thao tùng, trong khi đó tới 2/3 người trên thế giới đang bị nạn đói hoành hành. Thực sự mọi người cần nhờ vả nhau, giúp đỡ nhau về phương diện vật chất. Khốn cho ai sống mà lấy mình làm đủ. Những người ấy cần phải qua cơn ác mộng của nhà thi sĩ xã hội Sully – Prud’homme mới được. Trong một bài nhan đề là “một giấc mộng” thi sĩ viết:
         Nhà nông đến bảo tôi trong giấc mộng:
-       Ta không nuôi mày nữa, mày phải cào đất đi để cấy cày mà lấy cơm. - Người thợ nề bảo tôi, mày hãy xây nhà đi mà ở – Người thợ may dạy tôi: May áo đi mà mặc. Tất cả mọi người đều ruồng bỏ tôi, tôi đi lang thang mắt nhìn lên trời để van nài thựơng đế, thì thú dữ lại ra chặn đường. Tôi hỏang hốt, tôi ngã lòng, tôi muốn chết. Tôi mở mắt, ánh nắng soi tỏ giang sơn. Sung sướng nhìn thấy trên tường thợ hồ đang còn xây gạch, ngoài đồng văng vẳng tiếng tắc ri của nông phu, và tôi tin rằng ở đời ta phải nhờ vả lẫn nhau .
                           Đỗ Bá Ái,Đờiđángsống,trang24)
       
        Nước Inđônêsia có tới 13 ngàn hòn đảo lớn nhỏ, còn nước Phi Luật Tân cũng có tới 7100 hòn đảo. Không lẽ mỗi người chúng ta chỉ là một hòn đảo đứng trơ trơ bất động giữa biển cả sao? Không thể được, con người đâu có phải là vật chất vô hồn, trơ trơ bất động mãi ? con người còn có nhu cầu tình cảm nữa chứ.
b. Về phương diện tinh thần:
 Con người ngoài nhu cầu vật chất còn có nhu cầu tinh thần cần được chia sẻ nữa. Nói đúng ra đó là nhu cầu của tình yêu: yêu và được yêu. Các nhà triết học định nghĩa người là con vật có lý trí (homo est animal rationale). Và cũng có nhà xã hội lại định nghĩa “người là con vật có xã hội tính” (Homo est animal sociale), ta thấy ngay nhu cầu trao đổi: trao đổi vật chất và tình cảm. Người ta muốn chia sẻ cho nhau những tâm tình vui buồn để cho người khác cùng cảm thông với mình, không lẽ cứ:
               
                Ngồi buồn mà trách ông xanh,
                Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười.
                              (Nguyễn công Trứ)

Con người nhờ sống bên nhau mà tâm hồn lại thăng tiến, đời sống được bảo đảm. Không có sự liên lạc với nhau, con người dễ trở thành dã thú. Câu chuyện dưới đây sẽ làm chứng điều đó :

                     Truyện : người thành vật.
 Một em nhỏ 18 tháng, mẹ đem đi làm để ở ven rừng, báo tha đi mất. Ba năm sau một nhà săn bắn người Anh bắn chết con báo mẹ bắt được bầy con đem về, trong số có thằng nhỏ. Thằng nhỏ hóa ra như con vật: đi bốn chân, mắt rất kém, nhưng đánh hơi rất nhạy. Nó tuy nhỏ chạy bằng bốn chân nhưng người lớn khó mà đuổi kịp.

Một vụ khác: một mục sư  Thệ phản, năm 1942 bắt được hai cô gái ở Midnapore xứ Ấn Độ. Cô lớn lên 6 tuổi, cô bé lên 2 tuổi. Mục sư đem về nuôi trong cô nhi viện. Hai cô nhỏ này được chó sói nuôi nên hòan tòan giống chó sói: đi bốn chân, đi mau và cũng nhảy. Thấy hai ông bà mục sư tới thì lủi thủi trốn và nhe răng, chỉ thích ăn thịt và ham những mồi săn, thích cắm mặt nhìn vào trong đất … không dùng tay cầm, uống thì liếm như mèo, ban đêm thì cứ giờ nhất định tìm cách thoát ra và hú lên như chó sói. Sau 1 năm cô em chết, và cô chị (Kamala) có nhỏ ra giọt nước mắt, và lâu ngày tìm kiếm có vẻ áy náy. Kamala còn sống thêm 8 năm rồi chết. Nhờ tập tành nó cũng có tiến bộ đôi chút và thích nghi phần nào.
 (Văn Quy, Đi về đâu, 1968, trang 18)

Điều đó chứng tỏ muốn cho đời sống tiến bộ, cần phải có những tương quan liên lạc với những người khác.

3. Những sự kiện thực tế chứng minh:
         Sự thông cảm đã có trong đời sống hằng ngày, không những trong đời sống con người mà cả động vật và thảo mộc nữa. Đây là một khám phá mới mẻ trong đời sống thực vật.
a. Nơi loài người:
Ta thường nghe thấy những tin người này, người nọ tự tử. Ta sao họ tự tử?Buồn vìlý do, nhưng lý do chính là vì người ta chưa được thông cảm với mình. Biết bao người đau khổ, buồn chán muốn quyên sinh, nhưng nhờ có người yên ủi mà đã bỏ ý định. Những cô gái già thì hay khó tính vì thiếu sự chia sẻ tình cảm trong đời sống gia đình, cảnh dì ghẻ con chồng … Ở Âu Mỹ người ta thí nghiệm cách nuôi trẻ bằng máy Dưỡng nhi thay người. Mặc dầu được nuôi cách rất khoa học và vệ sinh, các em ấy ngày càng kém ăn biếng ngủ, tiều tụy rầu buồn và xuống cân. Nhưng khi người ta thêm vào trong phòng Dưỡng nhi một cái máy phát ra những âm thanh như tiếng đập của quả tim người mẹ, các em liền được bình tĩnh, vui vẻ hơn, sung sướng hơn, ăn ngon, ngủ ngon hơn.
 (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, trang 180 – 181).

Ai cũng muốn người khác chú ý đến mình, chia sẻ với mình những tâm tình vui buồn, những người nào được người khác thông cảm với thì cảm thấy sung sướng, như được một vật gì quý giá không nói lên được, và dĩ nhiên sẽ có phần đền bồi cân xứng.

                  Truyện:   Được gia tài lớn. 
Haus Bergen là một người Hà Lan ở làng Ide. Anh có bộ mặt quá xấu xí, do đó người trong làng coi rẻ anh, không ai buồn giao tiếp, chuyện vãn với anh. Anh đã phải sống đời cô độc cho tới khi anh chết.
Nhưng khi anh chết, người ta thấy trong di chúc anh có một gia tài khá lớn, trị giá 40.000 mỹ kim, và trong chúc thư anh đã tặng tất cả số tiền này cho một thiếu nữ nhỏ tổi tên là Anne Martin. Tại sao Anne Martin không có họ hàng gì với anh mà lại được Bergen để lại cho gia tài đó ? Trong di chúc Bergen đã nói rõ lý do. Bergen viết: “ Tất cả các ông bà trong làng đã cau mày hay nhìn đi nơi khác khi gặp tôi ở ngoài đường. Nhưng một ngày kia khi tôi gặp em bé Anne, thì em đã tặng tôi một nụ cười khả ái, nụ cười duy nhất tôi nhận được trong đời tôi”
 (Đỗ Đình Tiệm, 1968, Muốn thành công, tr 36 -37)
b. Nơi con vật:
Chắc đã có lần chúng ta thấy con chó thương chủ như thế nào! Có những con chó rất khôn biết thông cảm với người, dường như chúng có trí khôn vậy. Người ta kể có những con chó khôn đến nỗi khi ông chủ chết thì nó buồn rầu đến nỗi không ăn gì và sau cùng đã chết. Đoàn voi cũng biết bênh nhau ra phết. Người ta kể có một con voi đứng một mình vào giữa đường ra xe hòa trong ban đêm, không may xe hỏa đè chết con voi ấy thế là cả đàn voi trong rừng tức tốc chạy đuổi theo và thay nhau lấy vòi quật nát mấy toa xe hỏa ra. Ngoài ra kinh nghiệm của mọi người cũng chứng tỏ rằng con vật cũng biết thông cảm với nhau khi người ta nói: “ Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ”.
c. Nơi cây cối:

Xưa nay ai cũng bảo là cây cỏ vô hồn, nhưng gần đây người ta đã thí nghiệm và đưa đến câu hỏi: “Phải chăng cây cỏ cũng có linh hồn” vì chúng biết thông cảm với con người ? 
               
               Truyện : cây hoa lan.
Ông Backster trồng cây ÁiLan (Philodendron) trong chậu nhỏ đặt trên bàn làm việc và gắn một chiếc máy mà ông gọi là Monitor vào cành lan. Đó chỉ là một loại điện kế rất nhạy, có pin nội bộ để đo điện trở qua cành lá cây lan.

Một hôm, đang lúc tưới các chậu kiểng trong vườn, Backster có ý kiến dùng điện kế để đo sức lan truyền của nước vào thân cây qua cành lá khi cây được tưới mát. Backster suy luận rằng: khi có nước vào tức thì điện trở trong thân cây phải thay đổi. Và ông đã gắn điện kế vào mạch từ gốc đến ngọn của một cây lan để dò xét. Kết quả thật là lạ lùng. Điện kế chỉ một biểu đồ đặc biệt giống như dòng điện qua cân não con người khi bị kích thích. Phản ứng của đệin kế khi gắn trên thân cây cũng không khác gì khi được gắn trên con người vậy.

Tiếp tục cuộc thí nghiệm, Backster quyết định đốt cháy ngọn lá: vừa móc túi lấy hộp quẹt, chưa quẹt ra lửa (nghĩa là ý định sắp được thực thi) thì kim điện kế nhảy vọt lên một cách kinh khủng. Backster cho rằng chỉ mới cái quyết định của ông cũng đã làm cho cây khiếp đảm rồi. Nghĩa là không những cây cảm giác được với sự kiện bên ngoài mà còn biết được những tư tưởng của chúng ta. Nói một cách khác, nếu bạn biết thương cây cỏ của bạn thì chúng sẽ xinh tươi tốt đẹp hơn. Bởi vì, cảm tình của bạn rất cần thiết cho sinh lực và sức khỏe của chúng.

Backster còn đi xa hơn nữa và nhận thấy rằng: riêng đối với những cây mà ông đã đặc biệt chăm sóc hằng ngày chúng lại còn phản ứng trung thành trước mọi tư tưởng thầm kín của gia chủ. Backster đã gắn một loại điện ký hiệu vào cây Ái Lan để thu lại những tín hiệu trong lúc ông ta đi vắng. Backster nhận thấy trong những lần ông ta đi ra và quyết định trở lại văn phòng, thì ông ta thấy chiếc kim ở điện ký hiện ghi nhân một xung hiệu nhảy vọt vào đúng lúc ông ta có quyết định. Và có một lần ông ta thoát khỏi một tai nạn nguy hiểm thì khi trở về nhà, ông ta thấy đúng vào lúc thời điểm ấy, kim điện ký hiệu đã nhảy vọt lung tung vì xúc động.

Một hôm, Backster làm một cuộc thí nghiệm khác trước đông người để kiểm chứng sự việc ông đã trình bày về cây cối. Ông ta mời 6 nhân chứng, bịt mắt và bốc mỗi người một lá thăm. Sau đó, họ vào trong phòng riêng mở mắt ra đọc mệnh lệnh đã ghi trong tờ giấy thăm để thi hành cho đúng. Một trong 6 người nhận được mệnh lệnh “ phải chặt cho chết cây Ái Lan” nhưng không ai biết rõ được “kẻ tàn sát” ngoại trừ chính đương sự và cây Ái Lan. Bây giờ, Backster mới gắn máy điện kế vào cây và mời từng người đến “thi hành” mệnh lệnh họ đã nhận được. Kim điện kế nhảy vọt không ngần ngại khi thấy bóng “kẻ tàn sát” tiến đến gần cây Ái Lan … (trích trong báo Khoa học huyền bí, bài của Kim Hoàng Sơn, trang 64)
Qua những thí nghiệm của Backster ta thấy nhận xét của Nguyễn Du rất đúng khi ông nói:
                    “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
                     Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
4.     Hậu quả của sự thông cảm:
Một khi người ta đã biết thông cảm với nhau tự nhiên sẽ đi đến những kết quả rất tốt đẹp như phá bỏ hết sự dửng dưng, làm giảm bớt đau khổ, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của tha nhân. Và sau cùng thực hiện được Luật Chúa.

* Hết sự dửng dưng:
Chúng ta là con người sống trên mặt đất mỗi người một phương, xa lạ nhau nhưng chính sự thông cảm sẽ nối kết chúng ta lại với nhau, coi nhau như người thân thuộc, anh em một nhà. Chính cái bắt tay trong Thánh lễ cũng nói lên sự thông cảm của con cái Chúa mà một người dự lễ đã mô tả lại cảm tưởng ấy:

… và dưới nghinh đài theo lệnh xướng ngôn viên, hơn 1 triệu người Giáo hữu cũng bắt chước làm theo: họ bắt tay nhau trong niềm hân hoan không thể tả được.

Thưa cha, cũng là một cái bắt tay trong mọi lần khác khi gặp người quen, nhưng sao con cảm thấy có một cái gì thành thật, thông cảm, bằng an, nhẹ nhàng, khoan khoái. Thưa cha sau đó không thể tả nên lời được.
Vâng, có cảnh tượng nào cảm động hơn, rộng rãi hơn, ý nghĩa hơn khi một người Mỹ da trắng nắm chặt lầy tay một người Mỹ da đen, đôi mắt như nhìn vào người ấy, như van lơn tha thứ vì những rẻ rúng khinh miệt mà mình đã vô tình bộc lộ ra, trong những cuộc biểu tình kỳ thị chủng tộc… ( Đỗ Bá Ái, Đời đáng sống, in lần hai, trang 160)

* Giảm bớt sự đau khổ:
          Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho con người nhưng đấy là một hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên do đau khổ của loài người thì được biết:
 - 85% đau khổ là do người làm khổ người (nghĩa là tà thần xúi dục người làm khổ người)
 - 5% là do thiên tai như mưa, gió, lụt lội…
 - 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người không yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngãu nhiên. 15% đau khổ này, khi loài người yêu thương nhau, yên ủi giúp đỡ nhau, thì đau khổ coi như không đáng kể nữa.
(Nguyễn văn Minh, Nguyệt san tinh thần, số xuân 1975, tr 8)

* Đời sống tinh thần và vật chất đã tốt đẹp:
 Đây là một hậu quả tất nhiên của sự thông cảm: nếu người ta thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, chia sẻ cho nhau những sự vui buồn thì làm gì còn hằn thù chia rẽ, ẩu đả, làm gì còn chiến tranh. Nếu người ta biết chia sẻ của cải vật chất cho mọi người, đừng để cho 2/3 người trên thế giới bị đói khát, đừng để cho 400 triệu thanh thiếu niên nữa thiếu ăn, đừng để cho 800 triệu người chưa hề thấy mặt thầy thuốc… thì đời sống sẽ trở nên tốt đẹp ngay:
                    
                        Xinh thay là cảnh anh em
                        Cùng nhau chung sống dịu êm một nhà.
                                (Tv 133,2)

* Thực thi được luật Chúa:
 Chúa dạy chúng ta phải thương yêu nhau, như chính Chúa đã yêu thương chúng ta. Tình yêu đòi đi ra khỏi mình và chia sẻ cho người khác. Nếu đã yêu nhau, tất nhiên phỉa có những liên hệ với nhau. Sự thông cảm này được dựa trên một nền tảng thần học vững chắc đó là “ Nhiệm Thể Chúa Kitô”. Thánh Phaolô không dùng chữ “nhiệm thể” mà chỉ dùng chữ “thân thể”dựa trên Giáo lý về thân thể Chúa Kitô ngày nay Công đồng Vatican II đã khai thác ý niệm này trong hiến chế Lumen gentium nhưng dùng từ ngữ “ Nhiệm Thể Chúa Kitô”, ý niệm này cũng đã được Đức Giáo Hòang Piô XII đế cập đến trong thông điệp Mystici Corporis.

III. CHÚNG TA SỐNG THÔNG CẢM
Theo những điều chúng ta đã bàn ở trên, mỗi người chúng ta không thể là một hòn đảo lẻ loi, cô độc nhưng là một chi thể của một thân thể và có liên hệ mật thiết với nhau. Không ai có thể sống lãnh đạm với người khác được, lãnh đạm là một thái độ bì ổi trong đời sống con người.

Trước thái độ ấy, một mục sư người Anh Studdert Kennedy, có viết một bài thơ nhan đề là “ Lãnh đạm” như sau:
Khi Chúa Giêsu phải treo dựng trên thập giá ở đỉnh Gôlgôtha,
Người ta đóng đinh chân tay Ngài,
Người ta đày Ngài trên con đường khổ giá,
Người ta lấy mũ gai cuốn vào đâu Ngài,
Từ đỉnh đầu cho đến bàn chân, bao nhiêu vết thương rớm máu,
Vì thời đó thế gian độc ác và rắn rỏi,
Và người ta coi rẻ cái xác của con người.
Nhưng khi Giêsu đến thành Birmingham tráng lệ,
Dân thành sáp mặt Ngài mà chẳng ai buồn để ý,
Họ không nỡ đụng đến sợi tóc trên đầu Ngài,
Họ chỉ muốn cho Ngài chết mòn mỏi,
Thật ra họ không bao giờ muốn Ngài đau khổ,
Vì bây giờ đa cảm hơn.
Nhưng họ để Ngài thơ thẩn một mình ngoài đường cái, dưới cơn mưa lạnh,
Và Chúa Giêsu vẫn thầm thì cùang Cha Ngài:
“ Lạy Cha, xin Cha tha cho họ vì lầm chẳng biết”
Và trời vẫn mưa tầm tã, cơn mưa lạnh buốt của mùa động ảm đạm,
Dân đâm xéo Ngài từ đầu đến chân,
Ngoài đường cái kẻ qua người lại,
Rồi ai về nhà nấy.
Mà không một ai buồn đưa mặt nhìn Chúa Giêsu ngồi bệt giữa đất tựa lưng vào tường lạnh
Đang xin người ta dựng cho Ngài một núi Canvê mới.
                (Đỗ Bá Ái, Đời đáng sống, tin lần 2, trang 111 – 112)

Bài thơ trên đã nói lên thái độ hờ hững của chúng ta đối với tha nhân. Thực sự không phải chúng ta hờ hững đối với tha nhân, nhưng là hờ hững với Chúa Giêsu vì chúng ta là chi thể của Ngài. Nếu chúng ta làm gì cho chi thể thì cùng là làm cho đầu, đầu đây là Chúa Giêsu. Thật trớ trêu!
Trong phần thực hành sự thông cảm, chúng ta sẽ chú trọng tới hai phương diện tích cực và tiệu cực. Nghĩa là những thái độ phải tránh, và những việc phải làm để thực thi sự thông cảm với tha nhân.

1. Thái độ tiêu cực:           
Tính vị kỷ, tính lãnh đạm, ngưới nội hướng và tính ghen tương là những trở lực ngăn cản ta thi hành sự thông cảm. Giai đọan đầu cần phải tập sửa các nết xấu đó trước và cố gắng làm dần những việc tốt trong đời sống hằng ngày để chia sẻ với tha nhân.

a. Người ích kỷ:              
Lúc nào cũng chỉ nghĩ đến họ, lo cho họ và không muốn kẻ khác làm phiền mình. Họ chủ chương “sống chết mặc bay” nghĩa là đừng động đến tôi. Cái tôi của họ lúc nào cũng được nhắc tới và đưa lên hàng đầu. Trong những câu chuyện hằng ngày họ nói rất vô duyên vì lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình, đến cái tôi đáng ghét của Pascal. Câu chuyện sau đây chứng tỏ : 
            
                        Truyện : thông cảm trái mùa
Hai người đàn bà ngồi trong xe hỏa nói chuyện. Bà mặc áo đen kể lể với người bạn về những sự khổ cực trong gia đình mình: nào là làm ăn thua thiệt, con cái bướng bỉnh … nhất là mình mới mất người chồng thân yêu, làm cho đời trở nên buồn tẻ, cô đơn …

Bà mặc áo vàng ngồi bên tỏ vẻ thông cảm với người đàn bà đau khổ kia đã nói: tôi cũng rất buồn vì tôi mới mất một con chó Vện, con chó này khôn lắm, nó biết canh nhà cẩn thận, tôi đi đâu xa nó cũng tìm đến được, thật là một con chó đánh hơi rất tài tình. Nay nó chết, tôi buồn quá … Như vậy hai chị em mình cùng chia sẻ nỗi buồn với nhau !!!

b. Người lãnh đạm:       
 Tính lãnh đạm cũng bắt nguồn từ tính ích kỷ, người lãnh đạm là người không quan tâm đến kẻ khác. Họ chủ trương rằng tôi không làm thiệt hại ai là đủ còn vấn đề chia sẻ với nhau đâu có cần thiết. Họ nói cũng đúng một phần nào vì họ đã thực hành sự công bình, nhưng còn thiếu đức bác ái. Có rất nhiều hoàn cảnh nói lên tính lãnh đạm đó: trong một dãy phố, hai nhà đối diện nhau mà coi nhau như hai đại dương, không biết gì đến nhau. Hai nhà sát vách nhau mà cũng chẳng thăm nhau bao giờ. Ngày Tết, họ chỉ viết thiệp Tết bỏ vào thùng thư bưu điện chứ không hề tới thăm. Hai người ngồi sát nhau mà lòng trí để ở đâu, mỗi người gửi lòng đi một phương trời, hai người như hai hòn đỏa lẻ loi cô độc.

                         Truyện: tính lãnh đạm
 Bên Tây Phương, các nhà trắc nghiệm tâm lý đã làm những cuộc thí nghiệm xem tình liên đới, sự thông cảm giữa con người đến mức độ nào: người ta trói một người vào cột đèn trong lúc mọi người đang vội vàng đi làm việc buổi sáng. Máy quay phim đã được bố trí sẵn sàng để ghi lại thái độ của những người đi qua … Nhưng kết quả cho thấy, người ta cứ thản nhiên đi qua, không ai đứng lại hỏi người bị trói được một câu, vì ai nấy đang vội đến sở làm việc.

Hoặc một câu chuyện khác: ngày 10/9/1962 tại Mouza, nước Ý, trong cuộc đua xe hơi, một chiếc xe hơi lật nhào vào đám khán giả. Kết quả: 14 người bị tử thương… mấy người trong ban trật tự chạy lại khiêng xác nạn nhân ra: đang khi đó đòan xe cứ vùn vụt chạy vòng quanh như sao băng được một vòng lại kéo lên một lá cờ làm hiệu … Thế là hơn 100000 ngàn khán giả thản nhiên trước 14 nạn nhân đang giãy giụa trong vũng máu … Cũng là những khán giả đó sung sướng đến ngây ngất trước cái nét mặt của một cô đào giả bộ chết ngất.

c. Tính ghen tương:
Tính ghen tương đã xuất hiện cùng với con người, đó là bệnh chung của mọi người, khó ai có thể tránh khỏi: trong lớp chẳng ai mong cho bạn mình giỏi, vì nếu không mình sẽ bị đội sổ mất. Hai cô ca sĩ không khen nhau bao giờ. Người ta ít ca tụng người khác mà phần lớn hay chê bai, cũng như ít ai vui mừng vì thành công của người khác. Chúng ta sợ kẻ khác tốt hơn chúng ta như Bàng Quyên sợ Tôn Tẫn giỏi hơn mình. Họ Bàng sợ họ Tôn giỏi hơn mình đến nỗi đem lòng ghen ghét mà khép người bạn đồng môn của mình vào tội chặt cả hai chân, đổ mực vào mặt để trừ hậu hoạ !

Có khi ghen tương đưa đến chỗ trả thù cho bõ ghét vì những thành công của kẻ khác:
               
                          Truyện : hai sinh viên
Có hai sinh viên cùng lớp, một anh thông minh đặc biệt được nhà trường khen thưởng, còn một anh khác thì trí khôn tầm thường. Anh chàng này muốn hạ bệ anh sinh viên thông minh kia, nhưng không tìm được dịp nào thuận tiện để làm nhục anh này một phen … Tình ghen ấy đã xui khiến anh chàng này tìm các trả thù anh chàng sinh viên thông minh kia cho bõ ghét. Một hôm, có cuộc hội thảo giữa các anh em sinh viên và giáo sư. Anh chàng này xin làm xiếc góp vui. Anh ta mời anh sinh viên thông minh kia ra đng giữa để anh làm trò xiếc. Mọi người trố mắt nhìn xem anh chàng này làm cái trò trống gì. Sau khi lấy giấy, lấy vải trang hoàng cho anh sinh viên thông minh kia, anh ta dắt đi một vòng xung quanh mọi người và tuyên bố: “Tôi đã biến anh chàng sinh viên thông minh trở thành con chó …!

 Nếu đã có tính ghen tương thì không bao giờ người ta có thể thông cảm với người khác, làm thế nào họ có thể chia sẻ niềmvui của kẻ khác, trong khi họ đang hậm hực vì thành công của người ấy? Làm sao họ không vui trong khi người khác phải buồn vì họ đã trả thù được cho người kia.
2. Thái độ tích cực:
Chúng ta hãy bắc một nhịp cầu thông cảm giữa chúng ta và tha nhân, làm như thế tức là chúng ta đã bắc nhịp cầu với Thiên Chúa. Hiện nay trên thế giới có một nhà kiến trúc trứ danh chuyên môn xây cầu, đã được rất nhiều huân chương do các vị Tổng thống trao tặng. Ông đã xây những chiếc cầu vữa mỹ thuật vừa kiên cố, lại không kém công phu và tài tình, có cái cầu dài tới 8 cây số. Cả nửa cuộc đời ông chỉ chăm chú xây cầu trong khắp các nước Âu Mỹ. Ông thật là một đại ân nhân của nhân loại. Ông đã phá tan vự thẳm, sông bể, núi non ngăn cản nhân tâm, ông đã làm phát triển việc giao thông, thương mại, đã giúp phương tiện thông cảm cho bao tâm hồn.

Nói đến đây, chúng ta sực nhớ có một Đấng khác đã bắc một cái cầu dài nhất thế giới, một cái cầu vô địch nối từ đất lên trời. Chính con người ấy đã mở con đường độc nhất giao dịhc giữa Thiên Chúa và nhân loại, đó chính là Chúa Giêsu Kitô, Người Thiên Chúa, Ngôi Hai đã xuống cắm lều giữa chúng nhân. Suốt cuộc đời Ngài là chuyên lo xây cất muôn nhịp cầu thông cảm nơi các linh hồn nhân loại với Thiên Chúa và Ngài đã xây bằng Máu Ngài: đó là nhịp cầu giao hảo thông cảm giữa nhân loại tội lỗi và Thiên Chúa chí thánh mà Chúa Giêsu là trung gian, là chiếc cầu độc nhất cứu rỗi. Chúa đã đến phá tan bóng tối của sự chết, Ngài đã vượt thắng bao cản trở, bao vự thẳm đã làm ly gián giữa trời và đất. Sứ mệnh của Chúa là đến xây dựng, để cứu rỗi, để giao hảo, đem hòa bình và hạnh phúc cho các tâm hồn.
(Báo Thanh Trúc, số 18 – 19, năm 1959, trang 1)

Chúng ta hãy biết bắt chước Chúa Giêsu để biết chia sẻ với tha nhân tất cả những gì chúng ta có, tất cả những gì chúng ta muốn người khác làm cho chúng ta. Hãy để ý đến kẻ khác, hãy hòa hợp với họ trong điệu bộ, nét mặt, giọng nói, giống như loài mực nang ở biển thay đổi màu da tùy theo chỗ ở. Khi chúng nằm trên phiến đá xám thì màu da chúng cũng xám. Khi chúng nằm trên phiến đá xanh thì màu da chúng cũng trở nên xanh. Sự thay đổ màu da là một phương pháp thiên nhiên mà loài mực được hưởng thụ để tự vệ đối với người và các thủy vật thù địch.

Chúng ta cũng thế, đừng dửng dưng trước những đau khổ cũng như vui mừng của người khác. Nét mặt chúng ta cũng phải thay đổi theo nhịp độ vui buồn của anh em, đừng trơ trơ bất động như phiến đá lạnh ngắt. Tây Phương có câu ngạn ngữ rất hay: “ Tôi sẽ nhìn nghiêng nếu bạn tôi chột mắt”. Tại sao lại phải nhìn nghiêng ? Vì bạn tôi chột mắt nên chỉ nhìn được có một bên và cũng nhìn nghiêng. Câu này chỉ ý nói rằng: tôi phải biết cố gắng thích nghi với hòan cảnh của bạn tôi, chia sẻ với họ những tình cảm vui buồn…



Ba chị em Matta, Maria và Lazarô là ba môn đệ của Chúa. Cả ba mồ côi mẹ từ nhỏ. Lúc đó Matta độ 32 tuổi, Maria độ 30 tuổi. Hình như ba chị em cũng có nàh tại Galilê, sau này dọn đến Bêtania. Nơi đây Chúa Giêsu hay ghé thăm để nghỉ ngơi sau những giờ rao giảng mệt nhọc …

Tại sao Chúa Giêsu không thích lối phục vụ, săn sóc, lo cơm nước cho Chúa như kiểu của Matta mà lại thích lối xử sự  của Maria: “Maria đã chọn phần tốt nhất không ai lấy đi được”.

Theo một nhà chú giải Thánh Kinh: hồi đó, chỉ còn một tuần nữa, Chúa Giêsu phải lên Giêrusalem để chịu nạn, tâm hồn Ngài thấy buồn sầu lo lắng. Ngài muốn có người ngồi chia bầu tâm sự, nghe Chúa nói để thông cảm với Chúa … Theo tâm lý tự nhiên của con người, những lúc buồn sầu lo lắng như thế, những cảnh tưng bừng nhộn nhịp bên ngoài không làm cho vui mà chỉ làm tăng sự cô đơncho lòng mình. Vì thế, bữa cơm thịnh soạn mà Matta đang dọn không làm cho Chúa vui, mà Chúa chỉ cần người ngồi bên để tâm sự. Nói rõ hơn,Chúa Giêsu cần người biết thông cảm.

Chúng ta cũng phải biết thông cảm với những yếu đuối sa ngã của người khác. Chúa Giêsu không tìm để lên án người tội lỗi nhưng chỉ tìm cách khuyến khích họ cải tà quy chính, để giúp họ trở nên tốt lành hơn. Câu chuyện người đàn bà ngoại tình đã không chứng tỏ điều ấy sao ? trường hợp ông Giakêu có như vậy không ?
            
                     Truyện: nhờ một câu Thánh kinh
Tạp chí Sélection đã thuật lại ông chủ nhà hàng  có tiếng kia ở Mỹ chỉ trưng một câu Thánh Kinh, mà đã làm cho mấy trăm nhân viên của ông sống trong đòan kết, thông cảm với nhau.
Nhà hàng ấy có một nữ thư ký gặp trường hợp “khôn ba năm, dại một giờ”. Bạn bè nàng khinh bỉ, xì xào và định xin ông chủ sa thải cho khỏi bị tiếng lây. Ông chủ biết ý, nên trong một buổi làm việc, ông đã qua phòng và nói với họ: “Ai trong các anh vô tội, hãy ném đá nó trước đi”. Rồi ông đi về chỗ mình. Nàng nức nở khóc, các nhân viên im lặng. Và sau khi xong việc, người ta thấy mỗi một người đều đến bắt tay cô, và từ đó không ai có ý định xin sa thải cô nữa.
(Đỗ Bá Ái, Đời đáng sống, in lần 2, tr 161)

Sau cùng, chúng ta hãy biết nói, biết cười với tha nhân vì hai cái đó là đặc điểm Thượng đế dành riêng cho con người.
Hoàng Xuân Việt nói: “Nếu bạn và chúng tôi muốn thiên hạ mau gớm mình như một con chó ghẻ, thì chúng ta cứ vụng xài ba tậc lưỡi của mình. Gặp ai chúng ta cũng câm như hến. Đi ngoài đường sớn sác đạp đế giày da trên chân một người nọ rớm máu, ta làm thinh, lủi thủi đi. Ai làm ơn cho ta điều gì, ta cắn răng lại, lấy mắt ngó. Lúc ta bệnh đau, bè bạn, bà con đến thăm ta, hỏi bệnh ta thế nào, ta lườm lườm họ mà không hở môi. Trong khi cộng tác cùng kẻ khác, khi sống với người xung quanh, ta xử sự với thái độ sầu thảm. Khi cần thiết cũng không chịu nói nửa lời. Lúc kẻ khác cần biết ý kiến của ta, cần sự biểu lộ lòng chân thật của ta, ta giả bộ ít nói rồi im luôn. Trong những trường hợp kẻ dưới hay người lạ cậy nhờ lòng tốt của ta giúp đỡ, ta không buồn nói hay thốt ra vài lời cụt ngủn …”
(Hoàng Xuân Việt, Rèn nhân cách, 1971, tr305 – 306)

Chúa đã ban cho chúng ta có khả năng nói cười thì hãy cố gắng dùng nó để trao đổi tâm tình với tha nhân. Không dùng những khả năng ấy là làm phí của Chúa đi ! Thà rằng dành cho con nhòng, con vẹt, con sáo còn hơn … Ai không biết cười nói với tha nhân thì giống như một pho tượng được mô tả ở trong Thánh Kinh:
Có miệng đó mà không biết nói
Có mắt đó mà không biết trông
Có tai đó mà không biết nghe
Có mũi đó mà không biết ngửi  
Có tay đó mà không biết sờ
Có chân đó mà không biết di chuyển. (Tv 115)

Cần phải trao đổi với tha nhân bằng lời nói vì đó là phương tiện diễn tả tâm tình và ý muốn một cách thích hợp nhất. Theo ước lượng, thì một ngày người đàn ông nói chừng 25000 chữ, còn đàn bà thì nói nhiều hơn khoảng 300000 chữ. Tuy nhiên, không thể ấn định số lời cần nói vì tùy theo nhu cầu của từng người, từng trường hợp:

                  Lời nói không mất tiền mua,
                  Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
                              (ca dao)
KẾT LUẬN
Chúng ta là con cái Chúa, là anh em với nhau. Chúa đã tỏ ra thông cảm rất nhiều với con người chúng ta. Chúng ta được ví như con ngươi trong mắt Chúa, được Người giữ gìn cẩn thận. Chúa đã dạy chúng ta bài học về sự chia sẻ, sự thông cảm với nhau. Chúa đã thực hành trước khi dạy chúng ta: Ngài đã biết chia vui trong tiệc cưới Canna, Ngài cũng biết chia buồn với cái chết của Lazarô, của con trai góa phụ thành Naim…

                               Truyện: anh em thương nhau
Người ta nói rằng chỗ xây cất nhà thờ trong thành phố Giêrusalem ngày nay, xưa kia chỉ là thửa ruộng của hai anh em nhà kia, do cha mẹ để lại và cùng cấy lúa chung nhau.
Đến mùa gặt, hai người đánh lúa lại thành từng bó, chia đều nhau rồi để giữa ruộng chưa kịp gánh về.

Nửa đêm hôm đó, người em nghĩ bụng: “Anh ta đã có gia đình, phải lo nuôi vợ và các cháu nhỏ. Còn ta, ta chưa có ai, nếu chia phần lúa đếu nhua thật là vô lý. Thôi, ta phải trở dậy ra đồng, san thêm cho anh ta ít bó, anh không nhìn thấy nên không biết đâu mà từ chối”. Nói rồi, anh liền chạy vội ra đồng thi hành đúng như đã định.

Cũng trong đêm đó, người anh cả thức dậy và bàn với vợ rằng: “Này mợ nghĩ coi, chú hai còn trẻ dại chưa có gia đình: không có ai giúp chú ấy làm công việc hoặc yên ủi chú những khi mệt nhọc, nếu chia phần lúa đều nhau thì chẳng hóa ra bất công lắm sao ? Hay là chúng mình ra đồng lén bỏ thêm cho chú ấy ít bó lúa nữa. Ngày mai chú ấy đâu có biết mà nỡ từ chối”. Nói rồi, hai vợ chồng thi hành đung như  lời đã bàn.
Sáng mai, hai anh em ra ngoài đồng và mỗi người đều lấy làm ngạc nhiên vì thấy hai phần lúa vẫn đều nhau. Đêm sau họ lại thi hành lại ý định đêm trước, và cả những đêm sau nữa cũng làm như vậy. Mà lạ thay, hai đống lúa vẫn cứ đều nhau. Một đêm cả hai cùng ngồi chờ rình xem cớ sự ra sao. Hai anh em liền bắt gặp nhau lúc mỗi người tình đem lúa của mình sang cho đống lúa của người kia. Lúc này hai người mới hiểu lòng thương của nhau và cùng cảm động ôm chầm lấy nhau mà khóc (Louis Veuillot)
                     
Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống vui vầy bên nhau.
                                        (Tv 133,2)

LM Giuse Đinh lập Liễm
Chủng viện Simon Hoà