“Các ông cần phải được sinh lại bởi ơn trên.” (Ga 3,7b)
hôm nay Chúa Giê-su nhắc lại cho Ni-cô-đê-mô, thay vì đón nhận nó để sống vững vàng trong niềm tin, thì ông ngạc nhiên như điều không thể có và không thể chấp nhận. Chúa Giê-su khơi lại đức tin cho ông từ chính những kiến thức uyên bác của ông về Thánh Kinh: hình tượng con rắn đồng được treo lên trong sa mạc giải thích cho ông hiểu mầu nhiệm của việc tái sinh: phải tin vào Đấng đã vượt qua cái chết để tới được cõi sống: “Ai TIN vào Ngài thì được sống muôn đời”.
Lạy Chúa, xin thực hiện trong con mỗi ngày ơn biến đổi thiêng liêng.
THÁNH MICAE HIỂN TU
(1619-1652)
Thánh Micae biệt danh là "Xuất thần nhân", vì ngài hay được ơn ngất trí nhiều lần. Ngài sinh tại Vich, thuộc tỉnh Catalônia ngày 29-01-1591. Cha mẹ ngài là người đạo đức, sớm tối siêng năng đọc kinh lần hạt và kinh nhật tụng kính Đức Mẹ. Thói lành đạo đức đó đã mở đường cho con cái biết tôn sùng Đức Mẹ.
Năm lên bảy tuổi Micae được gia đình cho phép giữ chay ba lần một tuần trong suốt mùa chay. Vì thấy không hại gì cho sức khỏe của con, năm sau cha mẹ lại cho phép con giữ chay trong suốt cả mùa. Chính trong những ngày chay tịnh đó, Micae khao khát được dâng mình cho Chúa và khấn giữ khiết trinh. Lên 12 tuổi, thân phụ từ trần, cậu muốn xin vào dòng nhưng gia đình từ chối. Từ đó cậu bắt đầu tập cho quen sống bằng rau cỏ; tháng 8 năm 1603, cậu vận động được các cha dòng Thiên Chúa Ba Ngôi ở Barcêlona nhận vào dòng; cậu được mặc áo dòng và qua một năm nhà tập ở đó. Năm 16 tuổi, ngày 30-9-1607 trong một bầu không khí nghiêm trang và sốt sắng, Micae tay cầm ngọn nến lung linh, Micae sung sướng đến chảy nước mắt khi đọc lời tuyên khấn dòng.
Sau mấy năm theo học tại Sevilla rồi ở đại học Salamanca, thầy Micae được thụ phong linh mục tại Pharô, một tỉnh nhỏ của nước Bồ Đào Nha. Ngài thi hành nhiệm vụ linh mục tại Baexa cho tới khi được bầu làm Bề Trên tu viện Valladolid vào năm 1622.
Đời tu sĩ của cha đã được đánh dấu bằng nhiều lần xuất thần ở Sêvilla, dần dần không ai mà không biết tới. Một đêm kia tại nhà thờ thánh Mactinô khi đọc xướng bài thánh thư thứ tám trong giờ kinh đêm, tới chỗ có những lời sau: "Thành Giêrusalem đó ở trên trời và, để được lên đó, chúng ta phải chiến đấu với tất cả lòng tin tưởng". Vừa đọc xong cha khẽ buông một tiếng thở dài rồi mặt cha đăm chiêu ngây ngất như thiên thần sốt mến. Cộng đồng phải ngưng giờ đọc kinh lại một lúc đợi cho cha tỉnh lại. Nhưng vẫn vô ích. Một tu sĩ khác phải đứng ra đọc xong bài thánh thư. Cơn xuất thần của cha hôm ấy kéo dài cho mãi tới khi hát xong giờ kinh ngợi khen mới chấm dứt. Khi tỉnh dậy, cha vội vàng chạy ra khỏi cung thánh, bẽn lẽn xấu hổ. Sau lần ngất trí mà cha cho là một điều rủi ro đó, cha chỉ muốn đừng ai để ý đến cha nữa.
Một lần khác khi tới tu viện Corđôba vào một chiều thứ bảy, cha đến nhà thờ để đọc kinh chung với mọi người. Hôm đó cộng đồng nguyện ngắm về hạnh phúc Thiên đàng, bỗng dưng cha thấy vui sướng như ngây ngất đến nỗi người cha lâng lâng trên không khí. Cha ra khỏi cung thánh như có hai cánh nâng đỡ. Rồi bay qua một cánh đồng lúa chín cho tới khi đến một nhà thờ cha mới hạ xuống để vào chầu Chúa. Một lần khác, tại Salamanca, đương lúc giảng khuyên mọi người về sự hãm mình đền tội, cha được nâng lên khỏi mặt đất và lơ lửng trên không cho đến khi giảng hết bài. Trong khi xuất thần như thế cha hoàn toàn không biết gì những việc xẩy ra chung quanh. Một lần nữa khi mà hết cơn xuất thần, cha rất ngạc nhiên vì thấy tiếng kêu của mọi người chứng kiến, một ngọn nến cháy gần đến tay mà cha vẫn điềm nhiên như không có việc gì xảy ra.
Cha sẵn lòng làm mọi việc để giúp đỡ hết mọi người, nhất là ngài hằng nhiệt tâm hăng hái trong công việc chuộc lại những giáo hữu bị quân Hồi giáo bắt làm nô lệ, vì đó là mục đích chính yếu của dòng ngài. Nhưng không phải vì thế mà ngài bỏ rơi những người khác; ngài biết tìm lời thích hợp để xoa dịu những tâm hồn sầu muộn, cải thiện những người tội lỗi, cứu giúp những người nghèo khổ, túng đói.
Nhiều người đã được quen biết cha đều nói rằng hình như cha Micae được phúc hưởng kiến Thiên Chúa ngay khi ngài còn sống ở trần gian này. Vì thế đã khiến cha có được một đức tin nồng nhiệt, tinh tuyền và đơn sợ
Khi về già cha ngã bệnh ở tại tu viện Valladolicl, và người ta cũng biết rằng ngày qua đời của cha cũng chẳng còn xa. Cha chịu phép xức dầu với một tâm hồn sốt sắng rất mực. Tuy mang bệnh và nhọc mệt nhưng cha vẫn tỉnh táo để theo dõi từng kinh nguyện và lễ nghi. Giờ Chúa đến phán xét không làm cho cha run sợ chút nào, trái lại còn mang đến cho cha một niềm hoan lạc và an ủi vô biên. Bằng chứng cụ thể là cha vẫn tươi tỉnh và cầu nguyện cho đến nửa đêm. Vào khoảng một giờ đêm, như biết giờ sau hết của mình đã đến, cha ngước mắt lên trời, hai tay chắp lại và trút linh hồn trong tay Chúa, đúng lúc đồng hồ vừa điểm một giờ đêm. Cha tắt thở một cách yên hàn và êm ái không phải trải qua một cơn đau đớn khủng hoảng nào. Hôm đó là ngày thứ năm mồng 10-04-1652, khi cha vừa được 33 tuổi, 6 tháng 12 ngày, và ở trong dòng được 22 năm.
Chúa đã làm nhiều phép lạ trên mộ người tôi tớ Người. Sự kiện đó đặt nền tảng vững chắc cho việc Đức Giáo Hoàng Piô VI phong ngài lên bậc chân phước ngày 02-05-1779. Đến ngày 08-05-1862, Đức Giáo Hoàng Piô IX lại tôn phong lên bậc hiển thánh. Lễ kính thánh nhân được ấn định vào ngày 05 tháng 07, nhưng sách tử đạo xuất bản lần sau cùng lại ghi bài tán dương công trạng thánh nhân chính ngày kỷ niệm ngài qua đời, tức là ngày 10-04.