Nếu được bình chọn vị thánh nào khóc nhiều nhất, chắc người ta luôn ưu tiên chọn Mẹ như một người cả đời khóc vì chồng con. Mẹ khóc để cầu xin cho chồng con được yêu mến Thiên Chúa. Nước mắt Mẹ thống thiết đến tận trời cao và Người đã nhận lời ước nguyện của Mẹ. Đúng như nhận xét của thánh Augustinô: “Làm sao Chúa có thể nhắm mắt khi bà khóc, những giọt lệ khẩn khoản không phải xin vàng bạc, hay danh vọng trần gian mau qua, nhưng chỉ cho đứa con xa lạc được cứu rỗi?” Nhờ vậy mà đến cuối cuộc đời, Mẹ mỉm cười bay về Thiên quốc với niềm vui hoan hỷ. Hôm nay Giáo Hội mừng lễ của Mẹ, chúng con thích thú lắng nghe câu chuyện cuộc đời Mẹ.
Mẹ Monica mở mắt chào đời năm 332 trong một gia đình đạo đức ở làng Sucara bên Phi Châu. Từ nhỏ người ta chứng kiến cô bé Monica với nhiều nhân đức. Họ hy vọng lớn lên cô sẽ được hạnh phúc trong đời sống gia đình. Tuy nhiên Thiên Chúa lại trao cho Mẹ thánh giá mà tưởng chừng quá nặng đối với một người mẹ chân yếu tay mềm như Monica. Ở độ tuổi 22, Mẹ vâng lời kết hôn với Patricius thuộc dòng dõi qúy phái. Ông là người ngoại đạo với tính tình ngang ngược, độc ác mà tuổi lại gấp đôi. Hơn nữa, làm dâu trong một gia đình không cùng tôn giáo, với mẹ chồng không mấy tốt lành, người ta chứng kiến biết bao bất công mà Mẹ phải chịu đựng. Nước mắt mẹ tuôn rơi, nhưng mẹ vẫn vui vẻ sống cảm hóa chồng và gia đình bên chồng. Mẹ hy vọng một ngày nào đó, Thiên Chúa sẽ đoái thương Mẹ và cả gia đình.
Sau mấy năm nên nghĩa vợ chồng, Mẹ đã có ba người con mà Augustinô là con đầu lòng. Nhẫn nại trong lời cầu nguyện và không ngừng than thở với Thiên Chúa, Mẹ đã dần cảm hóa được chồng. Ngày Patricius rửa tội, đánh dấu một thời gian lâu dài Mẹ thưa với Chúa: “Lạy Chúa, thánh giá này Chúa đã gởi đến cho con, con xin lãnh nhận. Là phận hèn yếu đuối, xin giúp sức cho con lãnh nhận linh hồn Patriciô để hoán cải chàng.” Nước mắt mẹ tưởng chừng như vơi đi khi thấy chồng mỗi ngày yêu mến Chúa hơn. Nhưng không! Thiên Chúa quả muốn hun đúc đức tin của Mẹ. Ngài muốn Mẹ cộng tác vào việc huấn luyện nuôi dạy con cái theo đường lối của Chúa.
Dĩ nhiên Mẹ hằng yêu thương con cái, nhất là đối với Augustinô. Mẹ đặt nhiều hy vọng vào cậu. Với trí thông minh và tinh thần ham học hỏi, Mẹ chờ đợi con Mẹ sẽ nên người tài đức. Nhưng càng hy vọng, nước mắt Mẹ càng tuôn rơi. Cậy vào trí thông minh lanh lợi, Augustinô không ít lần hỗn hào với bố mẹ. Càng lớn cậu càng rơi vào con đường ham mê lạc thú danh vọng. Cậu sẵn sàng lừa dối Mẹ để thỏa mãn bản tính tự nhiên. Đến nỗi trong sách Tự Thuật, Augustinô thú nhận rằng: “Mẹ khóc cho tôi còn hơn bà mẹ mất đứa con một. Theo mẹ tôi đã chết, chết vì không tin, chết về tinh thần. Kết quả là bà không thể đem tôi ngồi cùng bàn ăn với bà hay về nhà. Bà không chịu nổi những câu nói lộng ngôn của tôi hay những sự đả phá của tôi.”
Vì là người học giỏi nên Augustinô được du học ở Cathage. Tại đây Mẹ lại tiếp tục khóc vì những thói ăn chơi của con mình. Thời gian này Augustinô ham mê tri thức chạy theo bè rối Manikê vốn chống lại Giáo Hội. Là người con tốt lành của Chúa, dĩ nhiên Mẹ đau lòng chứng kiến con mình rơi vào đường tội lỗi như thế. Mẹ khóc nhiều hơn. Khóc để kêu cầu Thiên Chúa giúp con Mẹ thoát khỏi vòng u mê đó. Và Thiên Chúa đã nhận lời để Augustinô nhận ra bè rối Manikê không hợp lý chút nào.
Sau đó con của Mẹ nhận được một công việc tại Milan nước Ý. Thế là trong vai trò giáo sư cho thành phố Milan, Augustinô phải làm việc gần gũi với vị giám mục Milan là thánh Ambrosiô. Không yên tâm với con mình nơi đất khách quê người, Mẹ lên đường để tìm kiếm và tiếp tục khuyên nhủ con. Thế là Augustinô lúc này vừa có Mẹ bên cạnh như nguồn tình cảm nâng đỡ cho cậu, vừa có Đức Giám mục như nguồn tri thức giúp cậu nhận ra chân lý.
Thiên Chúa không để Mẹ khóc nhiều hơn nữa. Mẹ vui sướng khi biết Augustinô quyết định trở về với Giáo Hội. Như lời chia sẻ của Augustinô: “Tôi muốn thành dự tòng đi học giáo lý cho đến khi tôi thấy được chân lý chắc chắn. Khỏi cần phải nói, mẹ tôi sung sướng lắm.” Dĩ nhiên bất cứ cha mẹ nào cũng đều vui sướng khi thấy con mình chọn đường ngay nẻo chính để bước đi. Mẹ cũng thế. Lúc này chắc nước mắt Mẹ cũng rơi, nhưng đó là hai dòng cảm xúc của hạnh phúc dâng trào. Từ đây con của Mẹ không những là con của Chúa, mà là Linh mục, giám mục tài đức, và là vị thánh nổi tiếng trong lẫn ngoài Giáo Hội.
Sau khi hạnh phúc chứng kiến con mình chịu phép rửa, Mẹ đã qua đời năm 387 và được an táng tại Ostia. Sau này Mẹ hạnh phúc được chôn cất bên người con mà Mẹ tốn rất nhiều nước mắt. (Xác thánh nữ được đem về nhà thờ Thánh Augustinô ở Rôma vào năm 1430.)
Mẹ biết không, khi chiêm ngắm cuộc đời Mẹ đắm chìm trong nước mắt, chúng con có dịp nhớ đến những người mẹ Công giáo đang đau khổ vì chồng con. Thời đại hôm nay tiếc là còn nhiều người vợ, người mẹ giống như hoàn cảnh của Mẹ năm xưa.
Là bổn mạng các bà mẹ Công giáo, xin Mẹ giúp mỗi người nữ trong vai trò làm vợ, làm mẹ có được tinh thần tín thác nơi Chúa như Mẹ Monica. Rồi khi gia đình gặp nhiều khó khăn khiến người vợ, người mẹ đau lòng, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho họ được mạnh mẽ trong đức tin. Xin Chúa lau khô nước mắt của họ. Được như thế, chúng con hy vọng trong gia đình công giáo lúc nào cũng tràn ngập niềm vui hạnh phúc.
Mừng lễ thánh Monica, Bổn Mạng Các Bà Mẹ Công Giáo
27-08-2017
Viết cho Linh mục Maximilian Kolbe!
Cha kính yêu,
Ngay từ nhỏ, con luôn ngưỡng mộ và thích thú về câu chuyện anh dũng của cha. Ngưỡng mộ vì cha đã dành cả một đời để chăm lo chữa trị căn bệnh thời đại: Thờ ơ với tôn giáo. Vả lại, con thích thú vì tinh thần quả cảm của cha dám chết thay cho một tù nhân trong thời Đức Quốc Xã. Hôm nay Giáo hội mừng lễ của cha, con có dịp đọc lại tiểu sử và sống lại những năm tháng thi hành sứ mạng tông đồ của cha trên quê hướng đất nước Ba lan.
Từ ngày cha mở mắt chào đời (ngày 7 tháng 1 năm 1894), ông bà cố cứ lo lắng không biết cuộc đời cha sẽ ra sao. Các ngài có lý để lo lắng than thở bởi sức khỏe của cha không được tốt như những đứa trẻ cùng thời. Tuy vậy, Thiên Chúa và Đức Mẹ đã quan phòng cho cha với một sứ mạng lớn lao. Còn nhớ có lần Ðức Mẹ hiện ra, tay cầm hai triều thiên, một màu trắng, một màu đỏ, rồi Ðức Mẹ hỏi cha có muốn nhận các triều thiên ấy không. Con ngỡ ngàng nghe câu trả lời thánh thiện khôn ngoan của cha: “Con muốn cả hai! (Màu trắng là thanh khiết, màu đỏ là tử đạo.)”
Từ đó cha lên đường thực thi sứ mạng Chúa trao. Mới 16 tuổi cha nhanh chóng gia nhập tiểu chủng viện Dòng Phanxicô. Sau những năm học triết và thần học, cha được Thiên Chúa tuyển chọn lên chức Linh mục ở tuổi 24. Từ đó cánh cửa mục vụ của cha bắt đầu ở toang với những giấc mơ mà cha hằng ấp ủ. Đầu tiên, cha nhạy bén nhận ra căn bệnh thờ ơ tôn giáo của thời đại vùng trời Châu Âu. Lúc ấy cách mạng công nghiệp và tri thức duy lý lên ngôi, con người tưởng chừng làm được mọi sự và họ cho Thiên Chúa ra rìa. Để chữa căn bệnh nguy hiểm này, cha mau chóng sáng lập tổ chức Đạo Binh của Ðức Mẹ Vô Nhiễm. Đường lối và mục đích của Đạo Binh này không gì khác hơn là chống lại sự dữ, sự thờ ơ tôn giáo bằng con đường cầu nguyện, làm việc lành phúc đức và đón nhận đau khổ. Bên cạnh đó, cha còn phát hành tờ Hiệp Sĩ của Đức Mẹ Vô Nhiễm như một phương tiện truyền thông hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng.
Để vận hành tờ báo này, cha thành lập một “Thành Phố của Ðức Vô Nhiễm” ở Niepolalanow. Hằng ngày có đến 700 tu sĩ Phanxicô làm việc ở đó. Nhanh chóng tờ báo như một món ăn tinh thần không thể thiếu cho người dân Ba Lan. Cả tổ chức và tờ nguyệt san của cha có khi lên đến 1 triệu hội viên cũng như độc giả. Đó là phương tiện mà cha miệt mài gieo hạt giống đức tin, thông truyền niềm hy vọng và lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa cho mỗi độc giả của cha. Phải chăng nhờ thế mà căn bệnh thờ ơ tôn giáo ngày càng thuyên giảm trên mảnh đất Ba Lan. Rồi sau này Ba Lan nhanh chóng trở nên đất nước Công Giáo với tinh thần sống đạo dâng cao.
Với thành công trong sứ mạng, với nhiều hy vọng trong tương lai, Thiên Chúa lại trao cho cha triều thiên tử đạo. Nếu cả thế giới kinh hoàng với sự tàn ác của chế độ độc tài Hiltle, thì đất nước láng giếng Ba Lan của cha lại là nước hứng chịu nhiều nhất. Từ khi lên nắm quyền năm 1933, Hiltle kiểm soát mọi mặt của đời sống. Một trong những chính sách bạo tàn của Đức Quốc Xã dưới thời Hiltle là diệt chủng, bài Do Thái và các chủng tộc hạ đẳng. Kết quả là hàng triệu người Do Thái và các nạn nhân khác, nếu Quốc Xã cho là “đáng ghét, hạ đẳng, không mong muốn”, đều bị khủng bố và tàn sát trong cuộc diệt chủng Holocaust. Tiếc thay cha là một trong số hàng triệu nạn nhân trong cuộc diệt chủng này.
Tại sao họ lại bắt cha? Khi Đức Quốc Xã xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939 (sự kiện mở màn chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu), cha và các tu sĩ Phanxicô nhanh chóng trong tầm ngắm của họ. Đơn giản Hiltle thừa biết mức độ ảnh hưởng của cha cũng như những việc tông đồ cha đang làm. Trước khi bị bắt, cha làm chủ biên tờ báo “The Knight Immaculate” và tờ “The Little Daily”. Đây là hai tờ báo được phát hành trong vùng phát xít chiếm đóng ở Ba Lan. Họ bắt cha và nhiều tu sĩ Phanxicô khác, nhưng chưa đầy ba tháng tất cả được trả tự do. Con nhớ trong lần tù đày này, cha không ngừng khuyên nhủ bạn tù: “Hãy can đảm lên các con. Các con không thấy chúng ta đang trên đường thi hành sứ vụ hay sao?”
Tuy vậy năm 1941, cha lại bị bỏ tù vì Đức Quốc Xã xem cha thuộc giới tri thức, có mức độ ảnh hưởng lớn lao và là vị lãnh đạo tài ba. Từ ngày hôm đó, phúc tử đạo của cha bắt đầu hé mở nơi trại tập trung kinh hoàng nhất của chế độ diệt chủng: trại tập trung Auschwitz.
Một trong những nguyên tắc bất di bất dịch của trại tập trung Auschwitz là hễ ai bỏ trốn thì 10 người khác phải chết thay. Vào ngày 31 tháng 7 năm 1941, có một tù nhân trốn thoát. Thế là 10 tù nhân trong trại phải lãnh án tử hình. Cha may mắn không thuộc nhóm này. Tuy nhiên, tên cai tù ngạc nhiên khi tù nhân số 16670 can đảm bước ra để xưng phong thế chỗ cho một tù nhân đang khóc than: “Tôi còn vợ và con!” Thế là cha Kolbe được chết thay cho trung sĩ Francis Gajowniczek.
Trong hầm giam, người ta ngỡ ngàng nghe được những bài thánh ca mà nhóm của cha cất lên. Thay vì oán trời trách đất, cha đã giúp họ cầu nguyện để chết đói trong bình an. Gần nửa tháng sau, chỉ còn bốn người sống sót, trong đó có cha. Thấy thế, tên cai tù kết thúc cuộc đời cha bằng một mũi thuốc độc. Sau đó cả nhóm của cha bị thiêu đốt. Vậy là cha đón nhận triều thiên màu đỏ vào trước ngày Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (14 tháng 8 năm 1941).
Là linh mục thánh thiện, là chủ biên tập tài năng và là vị tử đạo kiên cường, cha được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong bậc hiển thánh ngày 10 tháng 10 năm 1982. Cũng từ đó, cha thánh Maximilian Kolbe được đặt làm bổn mạng các nhà văn, nhà biên tập và ký giả phò sinh. Trong ngày mừng lễ của cha, xin cha giúp chúng con chữa trị căn bệnh thờ ơ với tôn giáo trong thời đại hôm nay. Xin cha đồng hành với những nhà văn, nhà báo và ký giả. Được như thế, chúng con ước mong phương tiện truyền thông có thể mang con người đến gần Thiên Chúa và Đức Mẹ hơn.
Mừng lễ của cha thánh Maximilian Kolbe, ngày 14 tháng 8