TRUNG THỰC TRONG ĐỜI SỐNG
“Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình.” (Mt 23,28)
Suy niệm: Tính xấu duy nhất không thể tha thứ là thói giả hình, bởi vì ngay cả khi người giả hình bày tỏ lòng hối cải, thì đó cũng chỉ là giả hình giả bộ. Nơi người giả hình, cái gì cũng gian dối, không có gì là chân thật. Tại sao ta giả hình? Thưa, tám lạng giả hình tương đương nửa cân tham vọng. Tiếng khen, danh giá là đích điểm cho tính giả hình. Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su dùng một hình ảnh quen thuộc với người Do Thái để chỉ thói giả hình, đó là mồ mả tô vôi. Cõi lòng người giả hình tựa như mồ mả quét vôi trắng trong mùa hành hương, bên ngoài đẹp đẽ dễ coi, nhưng bên trong đầy xấu xa dơ bẩn; ngoài miệng thì niệm nam mô, trong lòng lại đựng một bồ dao găm.
Mời Bạn: “Tất cả chúng ta đều là kẻ giả hình. Chúng ta không thể nhìn và xét đoán chính mình như cách ta nhìn và xét đoán người khác” (J. Pacheco). Thói giả hình không phải chỉ có nơi người Pha-ri-sêu ngày xưa, mà có thể nơi mọi người ngày nay, từ các nhà tu hành đến người giáo dân. Giả hình không chỉ trong giao tế xã hội, mà cả trong việc thực hành đức tin. Bạn làm gì để tránh thói xấu tệ hại này?
Sống Lời Chúa: Tôi cố gắng hết sức tránh cuộc sống hai mặt: tốt lành bên ngoài nhưng bên trong lại có ý đồ khác; hoặc tốt lành lãnh vực này nhưng lại làm việc ám muội trong lãnh vực khác; đòi hỏi người khác, nhưng lại dễ dãi với chính mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa nghiêm khắc lên án nếp sống giả hình. Xin cho con ghi khắc lời Chúa dạy, con nỗ lực sống trung thực, thống nhất trong suy nghĩ và hành động. Amen.
(1838-1918) |
Mặc dù bệnh cùi đã làm kinh hãi nhiều người ở Hạ Uy Di trong thế kỷ 19, bệnh dịch đó đã khích động lòng độ lượng vô bờ của Mẹ Marianne. Mẹ đã can đảm tận tình giúp thăng tiến đời sống của những người cùi ở Hạ Uy Di.
Vào ngày 23 tháng Giêng, 1838, một cô gái được chào đời trong gia đình ông Peter và bà Barbara Cope ở Hessen-Darmstadt, nước Đức. Tên của cô được đặt theo tên người mẹ. Hai năm sau, gia đình ông bà Cope di cư sang Hoa Kỳ và định cư ở Utica, Nữu Ước. Cô Barbara làm việc trong một nhà máy cho đến tháng Tám 1862, là lúc cô gia nhập Nữ Tu Dòng Thánh Phanxicô ở Syracuse, Nữu Ước. Sau khi khấn trọn vào tháng Mười Một vào năm kế đó, cô bắt đầu dạy học tại trường của giáo xứ Assumption.
Sơ Marianne giữ chức vụ hiệu trưởng ở một vài nơi và hai lần làm giám đốc đệ tử viện. Với bản tính lãnh đạo, đã ba lần sơ làm giám đốc bệnh viện Thánh Giuse ở Syracuse, là nơi sơ học được nhiều điều lợi ích cho những năm sau này ở Hạ Uy Di.
Được chọn làm bề trên năm 1877, Mẹ Marianne lại tái đắc cử chức vụ bề trên vào năm 1881. Hai năm sau, chính phủ Hạ Uy Di cần tìm những người điều hành trung tâm tiếp nhận người cùi ở Kakaako, và trên 50 tu hội ở Hoa Kỳ và Canada đã được hội ý. Khi lời thỉnh cầu đến tai các sơ ở Syracuse, ngay lập tức đã có đến 35 sơ tình nguyện. Vào ngày 22-10-1883, Mẹ Marianne và sáu sơ đến Hạ Uy Di để điều hành trung tâm người cùi Kakaako, ở ngoại ô Honolulu; và trên bán đảo Maui họ đã mở một bệnh viện và một trường nữ học sinh.
Vào năm 1888, Mẹ Marianne và hai sơ đến Molokai để mở một trung tâm cho "các thiếu nữ và phụ nữ cô thế". Chính phủ Hạ Uy Di rất do dự khi giao phó cho các phụ nữ một công việc rất khó khăn; nhưng với Mẹ Marianne họ không phải lo lắng gì! Ở Molokai, sơ đảm trách một trung tâm mà Chân Phước Damien Deveuster (chết năm 1889) đã thiết lập cho thanh niên và quý ông bị cùi. Mẹ Marianne đã thay đổi đời sống ở Molokai bằng cách du nhập sự sạch sẽ, sự hãnh diện và vui thích vào cộng đoàn này. Một trong những phương cách ấy là quần áo mầu mè cũng như khăn quàng cổ sặc sỡ.
Chính phủ Hạ Uy Di đã trao tặng cho Mẹ Marianne nhiều huy chương cao quý, và mẹ cũng đã được nhắc đến trong các tác phẩm của nhà thơ Robert Louis Stevenson, nhưng Mẹ Marianne vẫn tiếp tục làm việc một cách trung tín. Công việc của các sơ trong dòng đã thu hút được nhiều ơn gọi tu trì nơi người Hạ Uy Di và họ hiện đang làm việc ở Molokai.
Mẹ Marianne chết ngày 9 tháng Chín, 1918, và sự nghiệp của mẹ đã dẫn đến tiến trình phong thánh ở Rôma.
Lời Bàn
Nhà cầm quyền Hạ Uy Di đã do dự khi để Mẹ Marianne trở thành một bà mẹ ở Molokai. Ba mươi năm kiên trì làm việc đã chứng minh sự lo sợ của họ là vô căn cứ. Bất kể sự thiển cận của loài người, Thiên Chúa đã ban nhiều ơn sủng và cho phép những ơn sủng đó nở hoa vì Nước Trời.
Lời Trích
Sau khi Mẹ Marianne chết không lâu, Bà John F. Bowler đã viết trong tập san Honolulu Advertiser, "Không có nhiều thời cơ cho một phụ nữ mà bà đã dành từng chút giờ một trong 30 năm để săn sóc những người bị tách biệt khỏi thế giới vì lề luật. Bà đã hy sinh trong suốt thời gian đó, và đã chống trả với đủ mọi thứ một cách can đảm không nao núng và với nụ cười luôn tươi nở trên môi."
Ban Phát Không Ngừng
Trong một câu chuyện ngắn, văn hào Tolstoi của Nga đã ghi lại mẩu đối thoại của 3 người khách bộ hành như sau:
Mệt mỏi vì đường xa, ba người bộ hành đã dừng lại nghỉ chân bên một dòng suối trong vắt. Trong những giây phút thoải mái bên cạnh dòng suối, mỗi người mới phát biểu về lợi ích của nó.
Người thứ nhất lên tiếng: "Còn gì sung sướng bằng gặp được một dòng suối mát bên vệ đường! Nước suối trong vắt không những làm cho chúng ta được tươi mát, nhưng còn mời gọi chúng ta sống thành thật với nhau".
Người bộ hành thứ hai góp ý: "Dòng suối chảy như không ngừng muốn nói với tôi: Hỡi loài ngơừi, hãy làm việc! Hãy làm việc không ngừng để làm cho thế giới được tốt đẹp hơn".
Người bộ hành thứ ba, sau một phút trầm ngâm, mới thốt lên: "Những gì các bạn vừa phát biểu đều đúng cả. Nhưng còn có một điều quan trọng hơn nữa mà tôi muốn chia sẻ cho các bạn. Các bạn hãy nhìn kìa, dòng suối này chảy không ngừng. Nó ban phát không ngừng, nó ban phát cho tất cả mọi người mà không đòi hỏi một sự đáp trả nàỗ. Mỗi người chúng ta hãy sống cao thượng như thế".
Sự sống đang châu lưu trong tâm hồn chúng ta chính là Thần Khí của Thiên Chúa.
Thiên Chúa chỉ muốn thông ban, Thiên Chúa chỉ muốn san sẻ và Ngài chờ đợi chúng ta cũng sống như thế. Nguồn suối đang châu lưu trong tâm hồn chúng ta, nhờ đó chúng ta được sống một cách tươi mát, luôn mời gọi chúng ta cũng hãy ban phát không ngừng.
Thánh Thần là ân ban của Thiên Chúẫ. Người Kitô nhận lãnh Thánh Thần cũng hãy trở thành ân ban của Thiên Chúa cho người khác. Càng trao ban, càng phân phát, người Kitô càng tìm gặp lại chính mình.