NHÂN VẬT QUAN TRỌNG
“Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14,14)
Suy niệm: Trong các hội nghị, đám tiệc, người ta rất chú trọng đến việc xếp chỗ ngồi, trong đó không thể thiếu những ghế đặc biệt gọi là ghế VIP: ghế dành cho những nhân vật quan trọng (Very Important Person), những người có chức vị cao, có vai trò quan trọng trong tổ chức, những nhân vật danh tiếng trong xã hội. Thế nhưng, càng ngày càng có nhiều người được gán cho danh hiệu VIP này: ngôi sao ca nhạc, bóng đá, các đại gia… Ngoài ra, còn có những VIP tự xưng, tự tạo cho mình danh hiệu ấy bằng cách chơi xe sang, xây biệt phủ, sắm hàng hiệu đắt tiền. Thiên Chúa lại có một cách khác xếp chỗ cho thực khách trong bữa tiệc của Ngài: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
Mời Bạn: Thời nào người ta cũng thích người khiêm nhường hơn người kiêu ngạo. Chúa cũng thế. Mẹ Ma-ri-a là khuôn mẫu tuyệt vời về đức khiêm nhường. Mẹ chân nhận mình chỉ là nữ tỳ của Chúa và được Chúa nâng lên làm Mẹ Đức Giê-su và muôn đời Mẹ được khen là người diễm phúc nhất. Chúng ta cũng hãy để cho Chúa sắp xếp chỗ của mình trong bữa tiệc Nước Trời, vì đó là chỗ tốt nhất Chúa dành cho chúng ta.
Sống Lời Chúa: Suy gẫm lời sách Huấn Ca 3,17-18: “Con ơi, hãy hoàn thành việc của con cách nhũn nhặn, con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa yêu thích người khiêm nhường. Xin nhắc nhở chúng con nhìn nhận sự thật về mình như Đức Ma-ri-a và chân nhận sự yếu hèn mỏng manh của chúng con.
THÁNH CARÔLÔ BÔRÔMÊÔ
TỔNG GIÁM MỤC MILANÔ
Bôrômêô chào đời ngày mồng 02 tháng 10 năm 1538, thân sinh là ông Bôrômêô Arôma, con thứ năm hầu tước Gibert; thân mẫu Magarita Médici, chị ruột Đức Giáo Hoàng Piô IV. Khi vừa lên năm tuổi, Bôrômêô đã được gửi đi học. Ngày tháng trôi qua, mặc dầu trí khôn không vào hàng xuất chúng, nhưng do sự siêng năng cần mẫn, Bôrômêô chẳng mấy chốc đã qua hết bậc trung học, rồi lên đại học Pavia. Cuối năm 1559, khi vừa 21 tuổi, Bôrômêô được vinh dự lãnh cấp bằng tiến sĩ lưỡng luật, qua sự khảo hạch của giáo sư Phanxicô Alciat, một đại luật gia đương thời. Theo tục lệ thời bấy giờ, người ta có thể xin gia nhập hàng giáo sĩ từ hồi còn nhỏ. Chính vì thế nên vừa mới được 12 tuổi, Bôrômêô đã được nhận vào hàng giáo sĩ. Năm 1560, tức một năm sau ngày trúng tuyển tiến sĩ lưỡng luật, Bôrômêô được Đức Giáo Hoàng triệu về Rôma, ngài liền được phong tước vị Hồng y kiêm chức Giám quản địa phận Milan.
Làm Giám quản Milanô, nhưng ngài vẫn cư ngụ tại Rôma và kiêm nhiệm chức Quốc vụ khanh trong Giáo triều. Năm 1515, Đức Thánh Cha Phaolô III triệu tập Công đồng chung Tridentinô, nhưng phải mãi đến triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IV công đồng này mới bế mạc một cách mỹ mãn. Được như vậy phần lớn là nhờ sự tận tâm tận lực của Hồng y Bôrômêô trong việc thu thập tài liệu và liên lạc giải quyết với các nhân viên trong Giáo triều Rôma và với các sứ thần cũng như các nghị phụ trong Công đồng. Ca ngợi lòng nhiệt thành của đức Hồng y Bôrômêô, một nghị phụ người Vênitia nói: "Ngài làm việc có khi suốt đêm, soạn lại các báo cáo và tin tức khắp nơi gửi về, lãnh ý và liệu thi hành chỉ thị của Đức Thánh Cha… Đúng ra, ngài là người chấp hành sứ vụ hơn là đứng địa vị một cố vấn".
Mặc dầu làm Tổng Giám mục Milanô, nhưng Hồng y Bôrômêô vẫn cư ngụ tại Rôma để giúp Đức Giáo Hoàng điều hành công việc trong Công đồng Triđentinô. Trong thời gian vắng nhà, ngài trao quyền quản trị Giáo khu cho Nicôla Ormanetô, một vị phụ tá rất lỗi lạc. Tuy nhiên, dù phụ tá lỗi lạc mấy đi nữa cũng không thể ích lợi bằng sự hiện diện của chính chủ chăn, nhất là vào thời kỳ các lạc giáo đang tác hại khắp miền. Bởi vậy, sau thời gian công tác tại hai miền Trung và Bắc Ý với tư cách là một đặc sứ, Hồng y Bôrômêô đã long trọng về nhận địa phận ngày 23 tháng 9 năm 1565. Nhưng chỉ một ít tháng sau, ngài lại phải tới Rôma để dự đám tang người cậu yêu quí là Đức Giáo Hoàng Piô IV và dự cuộc bầu cử Đức Tân Giáo Hoàng. Công việc hoàn tất, ngài lại trở về Milanô. Lần này ngài mới thực hiện sự điều khiển địa phận. Là một Hồng y Tổng Giám mục mới 28 xuân xanh mà phải gánh vác trọng trách của một tổng giáo khu rộng lớn như Milanô, phải chăng sự kiện ấy lại không cho ta thấy ngài là một nhà lãnh đạo lỗi lạc? Thật vậy, 18 năm trời cai quản giáo khu Milanô, đối với ngài là 18 năm làm việc vất vả nhất, song lại kết quả nhất trong cuộc đời. Mềm dẻo nhưng cương quyết, yêu thương nhưng không thiên vị… với những đức tính ấy, ngài đã dần cải tổ được cả hàng giáo phẩm lẫn giáo sĩ dưới quyền. Các Giám mục hồi đó thường hay sống xa địa phận, không mấy quan tâm đến việc chăn dắt con chiên. Trước tình trạng ấy, Hồng y Tổng Giám mục đã cương quyết khuyến cáo các vị về việc thi hành khoản luật trú sở mà Công đồng Tridentinô mới ban bố, và lời khuyến cáo đó đã có kết quả tốt đẹp. Các giáo sĩ cũng vậy, do sự tuyển dụng thiếu chắc chắn, nên có nhiều vị sống không đúng phẩm chức của mình. Trước cảnh sa sút ấy, Hồng y Bôrômêô quả thực là người đã làm sống lại lý tưởng cao cả của bậc tu trì.
Tuy nhiên, sự "sốt sắng việc nhà Chúa" của Đức Hồng y không phải là không gặp phản ứng mãnh liệt. Tháng 8 năm 1569, các kinh sĩ thánh đường Maria della Seala tại Milanô, do Thống đốc Alburquerque xúi giục, đã xua đuổi không cho ngài vào thánh đường của họ. Nhưng cuối cùng ngài đã chế phục được các kinh sĩ này. Với các tu sĩ dòng "Khiêm nhường", ngài còn phải đối phó gắt gao hơn nhiều. Dòng "Khiêm nhường" là một hội dòng có tính cách địa phương thuộc miền Milanô, nơi này rất giàu có nhờ việc buôn bán tơ lụa, và sự giàu có ấy đã làm cho họ mất hết lòng đạo đức sốt sắng. Tổng Giám mục Bôrômêô muốn tái lập trật tự cho họ. Nhưng một hôm đang khi đọc kinh với gia nhân ở nhà nguyện, ngài đã bị tu sĩ Donatô bắn lén. May mà súng thô sơ và tầm bắn hơi xa nên các viên đạn chỉ xuyên thủng áo mà không gây thương tích trầm trọng.
Ngoài các việc tái lập trật tự trong các dòng tu sẵn có, ngài còn thiết lập một hội dòng riêng cho địa phận, đó là dòng thánh Ambrôsiô (1578). Chính ngài nghiên cứu và soạn thảo qui luật cho hội. Hội dòng này đã làm ích cho địa phận không ít. Năm 1611, sau khi ngài được phong thánh, hội dòng đã lấy một tên khác là "Dòng hai thánh Ambrôsiô và Carôlô".
Việc đào luyện cán bộ truyền giáo cũng làm ngài bận tâm không ít. Bởi vậy, theo như quyết định của Công đồng Tridentinô, ngài đã xây dựng nhiều chủng viện để đào tạo giáo sĩ, đồng thời xây cất các trung tâm giáo dục và các trung tâm tĩnh niệm cho hối nhân. Riêng việc học hỏi giáo lý, ngài đã gây được một phong trào rất sôi động trong toàn địa phận. Chính ngài đã quảng diễn Phúc âm, tuy đơn sơ nhưng súc tích, ngài dùng hình ảnh và áp dụng thực tế nên thính giả rất hâm mộ.
Hằng năm ngài dành rất nhiều thời giờ để kinh lý địa phận riêng và các địa phận thuộc giáo tỉnh của ngài, kể cả những địa phận xa xôi hẻo lánh nhất. Đến đâu ngài cũng được giáo dân tiếp đón nồng nhiệt. Nhờ những cuộc kinh lý này, ngài hiểu thêm được đời sống thiêng liêng và vật chất của tín hữu, đặc biệt hơn hết là ngài điều tra tại chỗ được khả năng làm việc và nếp sống của các cha xứ, nhờ đó ngài đã đề ra nhiều biện pháp thích nghi để thăng tiến hàng giáo sĩ.
Lòng nhiệt thành của Đức Hồng y đối với công việc tông đồ thật vô cùng cao cả, mà đức bác ái của ngài đối với đồng bào đau khổ cũng không kém phần chói sáng. Người ta vẫn không quên đại họa dịch tả và nạn đói kém đã xảy ra tại Milanô vào hai năm 1576 và 1577. Làng Cocarno với nhân số 4.800 đã bị thần dịch cướp đi mất chỉ còn 700 người. Trước cảnh đau thương ấy, Đức Tổng Giám mục không hề từ nan mọi sự giúp đỡ nào mỗi khi có thể. Ngài đã bán tất cả đồ dùng trong nhà để lấy tiền cứu trợ. Ngài đã quên ăn, bỏ ngủ để thăm viếng và giúp các bệnh nhân dọn mình chết.
Chính vì sự tận tụy hy sinh ấy thêm vào sự lao nhọc tông đồ trong suốt hai mươi năm trường, ngài đã phải kiệt sức rồi nhuốm bệnh nặng. Đến chiều ngày thứ bảy, mồng 03 tháng 11 năm 1484. Ngài đã lìa cõi trần gian tục lụy, về hưởng hạnh phúc bất diệt nơi Chúa dành để cho các bề tôi trung tín.
Hằng năm, cứ đến ngày ngài tạ thế, giáo dân Milanô lại tổ chức những buổi lễ cầu nguyện cho linh hồn Đức Tổng Giám mục thân yêu. Nhưng ngày 03 tháng 11 năm 1604, thay vì cầu nguyện cho ngài như mọi khi, người ta lại tổ chức một cuộc sùng kính công cộng hết sức long trọng. Thế rồi sang năm sau và năm sau nữa, thói quen đó cứ lan rộng dần ra khắp trời Âu. Tới năm 1640, Giáo hội chính thức tôn phong ngài lên bậc hiển thánh. Sự kiện này càng làm cho giáo hữu thêm lòng sùng mộ thánh nhân hơn nữa. Đời sống thánh thiện cũng như tài cai trị và đức bác ái nhiệt thành của ngài đã trở thành một tấm gương sáng trong, chẳng những cho toàn giáo dân mà còn cho cả các bậc vị vọng trong Giáo hội, chẳng hạn như cha Olier, đấng sáng lập hội Xuân Bích, Hồng y Bréuelle, và bao nhiêu Giám mục khác noi theo.
Xin thánh Bôrômêô cầu cho chúng con, nhất là cho hàng giáo phẩm và giáo sĩ, được một tinh thần hăng say phụng sự Thiên Chúa và phục vụ nhân loại, như ngài đã hăng say phụng vụ xưa. Amen.
Quo Vadis, Domine?
Ðêm trước ngày vào cơ mật viện để bầu Giáo Hoàng, Hồng Y Karol Wojtyla đã chuẩn bị hành lý để trở về Krakow, tổng giáo phận của ngàị Thế nhưng, ngài đã không trở lại Krakow nữa Ngày thứ hai, 16 tháng 10 năm 1978, vị Hồng Y 58 tuổi này đã được bầu làm Giáo Hoàng và lấy tên là Gioan Phaolô IỊ Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ Ba Lan, là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Italia kể từ 450 năm qua, và tính từ 150 năm trở lại, thì ngài là vị Giáo Hoàng trẻ nhất.
Trong khi chuẩn bị cho bài giảng Chúa Nhật đầu tiên kể từ lúc được bầu làm Giáo Hoàng, Ðức Gioan Phaolô II đã nghĩ đến tác giả của quyển tiểu thuyết giả sử nổi tiếng "Quo vadis, Dominẻ" là ông Henryk Sienkiewicz, một văn sĩ và đồng thời cũng là một nhà ái quốc Ba Lan Qua tác phẩm này, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã so sánh tâm tình của mình với vị Giáo Hoàng đầu tiên là thánh Phêrô như được ghi lại trong tác phẩm "Quo vadis,Dominẻ", "Lạy Chúa, Chúa đang đi đâủ". Theo tác giả quyển tiểu thuyết giả sử, thì có lẽ thánh Phêrô thích ở lại quanh quẩn bên bờ hồ Genezareth hơn là đến giữa trung tâm của đế quốc La Mã để gặp không biết bao nhiêu chống đối và bách hạị Giữa lúc vị Giáo Hoàng đầu tiên toan tình trốn khỏi La Mã để trở về quê hương mình, thì ngài gặp lại Chúa Giêsu hiện ra đang đi ngược chiều với ngàị Ngạc nhiên về sự xuất hiện của Chúa, thánh Phêrô đã hỏi: "Quo vadis, Dominẻ" nghĩa là "Lạy Chúa, Chúa đang đi đâủ". Và Chúa Giêsu đã trả lời như sau: "Ta đang đi đến La Mã để chịu đóng đinh một lần nữa". Hiểu được ý Chúa, Phêrô đã quay trở lại La Mã và ngài ở lại đó cho đến khi chịu đóng đinh.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Carolô Borremêô và mừng bổn mạng một cách đặc biệt của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô IỊ Mãi mãi tên Carolô gắn liền với tên tuổi và vận mệnh của Ðức Thánh Chạ Hơn ai hết, ngài phải là người kính nhớ và ghi ơn vị thánh bổn mạng nhiều nhất.
Tên thánh được đặt cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa đánh dấu sự đổi đời quan trọng của chúng tạ Từ cái chết trong tội lỗi, chúng ta được tái sinh trong sự sống của Chúạ Hướng đi của chúng ta phải là hướng đi tới Chúa, không thể là bước thụt lùi.
Mang lấy tên thánh Carolô, Wojtyla đã quyết tâm hướng cuộc đời của mình tiến tới trong phục vụ và hy sinh như như chính thánh giám mục Carolô Borremêô. Và khi chọn lấy danh hiệu mới là Gioan Phaolô, vị Giáo Hoàng người Ba Lan cũng quyết tâm tiến tới trên con đường mà hai vị tiền nhiệm của mình đã vạch rẫ. Là người Kitô, chúng ta cũng luôn được mời gọi tiến tới không ngừng trên đường theo chân Chúa Giêsụ Tên thánh mà chúng ta mang lấy trong ngày Rửa Tội, danh hiệu Kitô mà chúng ta được đặt cho phải luôn luôn là một nhắc nhở chúng ta về con đường tiến lên ấy. Chắc chắn con đường ấy không là một con đường rộng thênh thang. Sự tiến lên ấy không là một đà tiến dễ dàng. Phêrô đã quay trở lại La Mã để chịu đóng đinh... Thập giá có lẽ đang chờ đợi chúng ta, chúng ta hãy hiên ngang tiến bước vì đó chính là hướng đi của tất cả những ai mang danh hiệu Kitô.