Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016

"TRÁI TIM MẸ SẼ THẮNG…"

Filled under:

 

Cách đây đã gần 30 năm, người dân đi rừng ở thôn Măng Đen, xã Đắk Long, huyện Kon Plông, tỉnh Kontum, phát hiện ra một pho tượng Đức Mẹ bị cụt đầu và gãy tay, rồi những người dân nghèo đến với pho tượng đau thương này cầu nguyện, họ được ơn nên tin tức loan dần ra. Ngày một đông người đến viếng và xin ơn, Đức Cha Giáo Phận cùng các Linh Mục vào cuộc, giúp cho những người hành hương các Bí Tích cần thiết khi họ đến với pho tượng được gọi tên là Đức Mẹ Măng Đen kỳ lạ này. Lịch sử bản thân pho tượng đã là một chuyện kỳ thú, mà diễn tiến việc khám phá ra cũng như nỗ lực bảo vệ pho tượng lại càng nhiều tình tiết hấp dẫn. Khi nào có dịp chúng ta sẽ trở lại với những kỳ thú này…

Khi tổ chức các buổi lễ kính viếng Đức Mẹ Măng Đen, những ngưới có trách nhiệm lắp chiếc đầu bị cụt của tượng Đức Mẹ vào và lắp cả hai cánh tay bị gãy vào nữa, thậm chí còn sơn tượng cho tương đối đẹp và hoàn chỉnh. Nhưng có nhiều luồng ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược, có người chỉ đồng ý lắp đầu của tượng thôi, còn tay cứ để gãy như vậy, ngay cả việc sơn lại tượng cũng bị phản đối.  

Một cuộc thăm dò dư luận được thực hiện, ngày hành hương đến, người ta bày hai loại hình, một bên là hình tượng Đức Mẹ được lắp đầu vào, không có tay và không sơn mới, một bên là tượng Đức Mẹ đã được lắp lại hết các phần bị gãy và sơn lại cho tương đối dễ coi. Kết quả bất ngờ: dân chúng, đa phần là anh em các dân tộc trong Giáo Phận đã chọn hình tượng chỉ có đầu, không có tay và không sơn mới. Anh em cho biết: “Đây mới chính là Mẹ của chúng tôi !” Họ là những người nghèo, những người không son không phấn, không quần áo bảnh bao, không lành lặn cơ thể vì tật nguyền, không mạnh khỏe vì bệnh tật, không ngẩng cao đầu được vì bị loại trừ khinh chê, họ cùi, họ lở, họ đói và họ khát…

Măng Đen ngày một đông người kéo đến, dĩ nhiên là đủ mọi loại khách, nhưng đông nhất vẫn là những đoàn người anh em dân tộc lầm lũi gánh gùi đến với Mẹ, nhìn cái cách họ đi, cách họ ăn mặc và cả bữa cơm bọc lá chuối chấm với muối hột cả nhà quây quần cùng ăn, chúng ta nhận ra ngay tại sao họ lại chọn hình ảnh bức tượng gãy tay và không sơn mới lại. Họ nhận ra Mẹ ở với họ, chia sẻ với họ, giang tay đón nhận họ, gần gũi thân quen với họ, có thể nói họ nhận ra họ trong hình tượng Mẹ như thế. Người anh em dân tộc không lý luận quanh co, không “chẻ sợi tóc ra làm tư”, nhưng sống theo cảm xúc, chân thật và trong suốt. “Mẹ của chúng tôi”.

Những nhận xét và suy tư trên đây cho chúng ta thấy, Đức Maria đươc ban cho nhân loại với tư cách là Mẹ của nhân loại, làm Mẹ của nhân loại, nên Mẹ thuộc về nhân loại, gắn bó với nhân loại, sống chết với nhân loại này.

Cách đây tròn một thế kỷ, năm 1917, Mẹ hiện ra ở Fatima với thông điệp: Ăn năn sám hối quay trở về với Chúa – Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ – Siêng năng lần hạt Mai Khôi, với lời hứa “Trái Tim Mẹ sẽ thắng và nước Nga sẽ trở lại”. Bầu khí chiến tranh dạo ấy bao trùm và nổ ra khắp nơi trên thế giới, thế chiến thứ nhất và thứ hai lần lượt nối tiếp nhau giết hại nhân loại, rồi sau đó là chiến tranh lạnh đối đầu giữa hai khối tư bản và cộng sản…

Bọn trẻ chúng tôi được giáo dục cầu nguyện theo “mệnh lệnh Fatima”, không chỉ tiếng kinh cầu râm ran khắp các Xóm Đạo, nhưng những thực hành hãm mình hy sinh, những cuộc sám hối thật sự được thường xuyên nhắc nhở và thực hiện. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam chia đôi, tiếng bom đạn thường xuyên vọng về qua các xóm làng, phố phường, từng lớp thanh niên lên đường cùng với từng chuyến xe tang lẳng lặng đi xuyên thành phố. Và rồi nước Nga đã trở lại thật, khối cộng sản Đông Âu tan vỡ hoàn toàn, các nước trong liên bang Xôviết được độc lập và theo đuổi chủ nghĩa phát triển.


Còn chúng ta thì sao, chúng ta có thao thức với hiện tình đất nước chúng ta không ? Tại sao chúng ta không tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh hơn nữa việc cầu nguyện và thực hành các “mệnh lệnh Fatima”, chúng ta có tin “Trái Tim Mẹ sẽ thắng” không ? Tại sao chúng ta không cầu nguyện cho những người cộng sản, những người vô thần được ơn trở lại ? Thứ Sáu Tuần Thánh, chiêm ngắm Chúa Giệsu trên thập giá, Hội Thánh chẳng cầu nguyện cho họ đó sao ? Tại sao chúng ta không tiếp tục một cách nhiệt thành lời cầu nguyện ấy trong đời sống hàng ngày của chúng ta ? Thiết tưởng đã đến lúc cần phải nhắc lại sứ điệp Fatima một cách cụ thể, hội nhập và thời sự, đã đến lúc phải nhắc nhau thực hành sứ điệp ấy.

Năm 2017, đúng 100 năm sứ điệp Fatima được ban hành. Mẹ của chúng ta không thờ ơ, không đứng xa, không vô cảm với chúng ta, với thời cuộc, Mẹ đang chờ và mong muốn chúng ta thực hiện để “Trái Tin Mẹ sẽ thắng – anh em vô thần sẽ trở lại”. Hãy thực hành ngay “mệnh lệnh Fatima”.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 
ngày Lễ Đức Mẹ Sầu Bi, 15.9.2016


Đức Mẹ đồng công
Tác giả ARTHUR POLICARPIO

Đối với nhiều người, cảnh ấn tượng và xúc động nhất trong bộ phim bom tấn “Cuộc khổ nạn của Đức Kitô” (The Passion of the Christ) của đạo diễn Mel Gibson là cảnh Chúa Giêsu mặt mũi tím bầm mà bị ngã xuống đất dưới sức nặng của cây thập tự. Rồi Đức Mẹ chạy đến nhìn Con vừa âu yếm vừa xót xa, nước mắt đầm đìa, muốn bảo vệ Con và muốn đỡ Con đứng dậy, Đức Mẹ nói lớn: “Mẹ đây!” (I am here!). Lúc này có cảnh Đức Mẹ hồi tưởng khi Chúa Giêsu còn thơ ấu ...
Với Chúa Giêsu
“Mẹ đây!”. Đúng là sự quan phòng của Thiên Chúa, lúc mà người ta tranh luận sôi nổi về tính khả dĩ của giáo lý tôn xưng Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ, Đấng Trung Gian và Trạng Sư (Coredemptrix, Mediatrix and Advocate), ý nghĩa đầy đủ của Đấng Đồng Công Cứu Độ được diễn tả trong câu “Mẹ đây!”, một trong những khoảnh khắc xúc động nhất trong phim đã được hằng triệu người trên thế giới xem. Có vẻ như Chúa Thánh Thần đang chuẩn bị cho mọi người chấp nhận giáo lý đó, ngay cả phim của đạo diễn Mel Gibson cũng nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa là làm cho mọi người chân nhận Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ.
Về tính chất này, ý nghĩa đích thực của Đấng Đồng Công Cứu Độ là “cùng với Chúa Giêsu” khi Đức Mẹ nói với Chúa Giêsu: “Mẹ đây!”. Quả thật, Đức Mẹ luôn “cùng với Chúa Giêsu” trong suốt cuộc đời của Con, từ lời “xin vâng” khi được sứ thần Gabriel truyền tin tới “cuộc khổ nạn tâm linh” trên đồi Can-vê.
Khoảnh khắc kỳ diệu
Trong vài năm qua đã có 550 giám mục, 43 hồng y và gần 7 triệu giáo dân ở 157 quốc gia trên thế giới đồng ký tên kiến nghị Đức giáo hoàng tuyên bố tín điều thứ năm về Mẹ Thiên Chúa: Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ, Đấng Trung Gian và Trạng Sư.
Chỉ trong 10 năm mà có tới 7 triệu người kiến nghị, tỷ lệ cao nhất trong lịch sử trong việc tuyên bố tín điều về Đức Mẹ. ĐGH Piô XII đã công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời vào năm 1950, với 8 triệu người kiến nghị trong vòng 95 năm.
Phong trào kiến nghị được tiến sĩ Mark Miravalle đề xuất. Ông là giáo sư khoa Thần học tại ĐH Phanxicô ở Steubenville, chủ tịch phong trào Vox Populi Mariae Mediatrici – một phong trào Công giáo quốc tế thúc đẩy thỉnh nguyện Đức giáo hoàng tuyên bố Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ, Đấng Trung Gian và Trạng Sư. Theo GS Miravalle, đáng chú ý có hai quốc gia đứng đầu về việc kiến nghị này là Mexico và Philippines.
Hơn 70% người Công giáo Mexico đã thỉnh nguyện Đức giáo hoàng tuyên bố tín điều Đức Mẹ Đồng Công. Mặt khác, người Công giáo Philippine cũng đã có nhiều người thỉnh nguyện điều này. Khi còn tại chức, cựu tổng thống Cory Aquino của Philippine đã xin Tòa thánh tuyên bố tín điều này.
Tuy nhiên, nhiều thần học gia, nhiều giáo sĩ và giáo dân vẫn nghi ngờ sự thật về việc Đồng Công Cứu Độ của Đức Mẹ. Thậm chí nhiều người còn tranh luận về tôn danh Đức Mẹ Đồng Công.
Làm rõ Đấng Đồng Công Cứu Độ
Tôn danh Đức Mẹ Đồng Công có ý nghĩa gì? Tiếp đầu ngữ “co” có gốc tiếng Latin là “cum”, nghĩa là “cùng với”. Chữ “co” không đặt Đức Mẹ đồng đẳng với Chúa Giêsu, vì từ này không bao hàm “sự đồng đẳng” mà có nghĩa là “cùng với”. Mặt khác, chữ redemptrix có gốc tiếng Latin là động từ “redimere” có nghĩa là “mua lại”,' và “trix” là thể hiện “giống cái”. Do đó, coredemptrix theo nghĩa đen có nghĩa là “người phụ nữ mua lại với”, chính xác hơn là “người phụ nữ cùng với người cứu độ”.
Không nhiều người biết rằng ngày 1-6-2001, trong số các vị lãnh đạo Giáo hội Philippine có ĐHY Sin và ĐHY Vidal, các chính khách, giáo dân, và các vị chức sắc khác như cựu tổng thống Cory Aquino, đã họp nhau tại nhà thờ chính tòa Manila để tôn vinh Mẹ Maria với tước hiệu “Đức Mẹ của mọi Quốc gia” (Our Lady of All Nations).
Người ta tưởng nhớ những lần Đức Mẹ hiện ra ở Hà Lan (được phép của giám mục địa phương), với tước hiệu “Đức Mẹ của mọi Quốc gia”, đó là lời kêu gọi Giáo hội công bố tín điều Đức Mẹ là Đấng Đồng Công, Đấng Trung Gian và Trạng Sư. ĐHY Vidal giải thích rõ về Đấng Đồng Công Cứu Độ: “Đức Mẹ không ngang hàng với Đấng Cứu Độ – Đức Mẹ chỉ là một thụ tạo hữu hạn, còn Chúa Giêsu là Tạo hóa vô hạn. Nhưng Đức Mẹ đồng lao cộng khổ VỚI Đấng Cứu Thế trong việc cứu độ chúng ta. Đức Mẹ cộng tác VỚI kế hoạch cứu độ bằng cách chấp nhận làm Mẹ của Đấng Cứu Thế. Từ khi thụ thai tới lúc sinh Con, tới lúc Con làm sứ vụ và tới lúc Con chết, Đức Mẹ vẫn cộng tác VỚI Đấng Cứu Thế ... Mẹ chịu đau khổ với Con để cứu độ nhân loại. Vậy Mẹ là Đấng Đồng Công”.
Chân phước Mẹ Teresa Calcutta giải thích rõ: “Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ với Chúa Giêsu. Mẹ đã cho Chúa Giêsu thân thể và chịu đau khổ với Con dưới chân Thánh giá”. Vì thế, tôn danh Đấng Đồng Công Cứu Độ không nâng Mẹ lên ngang hàng với Chúa Giêsu nhưng đề cập sự cộng tác thứ cấp trong công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.
Đấng Đồng Công Cứu Độ  trong Giáo hội sơ khai
Điều mà nhiều người không nhận ra là qua lịch sử Giáo hội, vai trò của Đức Mẹ là “Đấng Đồng Công Cứu Độ” với Đức Kitô đã được dạy bởi nhiều vị thánh, tiến sĩ giáo hội, thần học gia, giáo hoàng và giám mục, … ngay từ đầu thế kỷ II. Giáo lý về Đức Mẹ là người cộng tác trong sứ vụ cứu độ của Đức Kitô là điều không mới lạ. Phong trào hiện nay do Miravalle khởi xướng chỉ là đỉnh cao, là bước cuối trong cuộc chạy đua về đích đã khởi động từ thế kỷ II.
Thánh tử đạo Justinô (khoảng năm 165) là người đầu tiên nói về vai trò trung gian của Đức Mẹ trong việc cứu độ. Ngài nói rằng qua một người phụ nữ (Eva) mà cả nhân loại sa ngã, nhưng cũng qua một người phụ nữ (Đức Maria) mà nhân loại được phục hồi trong ân sủng: “Chúng ta biết rằng, trước cả mọi thụ tạo, Chúa Con nhiệm xuất từ Chúa Cha bằng quyền năng và ý muốn, và qua một Trinh Nữ mà Chúa Con hóa thành nhục thể, để sự bất tuân khởi đầu từ con rắn có thể được khôi phục”.
Đầu thế kỷ III, Thánh lrênê (khoảng năm 202), giám mục GP Lyons, nói về vai trò của Đức Mẹ trong việc cứu độ: “ ...Đức Mẹ tuân phục và trở thành nguồn ơn cứu độ cho chính Mẹ và cho cả nhân loại.. .”.
Thế kỷ IV, Thánh Epiphaniô, giám mục GP Salamis (403), có cách giải thích khác về vai trò cứu độ của Đức Mẹ: “Từ khi bà Eva đã đem sự chết đến với nhân loại, sự chết đã đi vào thế giới, còn Đức Mẹ đã đem đến sự sống, nhờ Đức Mẹ mà sự sống được sản sinh cho chúng ta”.
Thánh Ambrôsiô, tiến sĩ giáo hội và là cha linh hướng của Thánh Augustinô, dạy rằng Mẹ của Đức Kitô “đã đem ơn cứu độ đến cho nhân loại”: “Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Thiên Chúa đến cứu thế gian, bắt đầu công cuộc của Ngài nơi Đức Mẹ, để nhờ Mẹ mà ơn cứu độ khởi đầu, và Đức Mẹ là người đầu tiên tiếp nhận Chúa Con”.
Thánh Augustinô được ĐGH Gioan Phaolô II xác định là người đầu tiên nói Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ. Thánh nhân viết: “Một phụ nữ đã trao chất độc và lừa dối loài người. Một phụ nữ đã trao ơn cứu độ để loài người được phục hồi. Bằng việc sinh Chúa Giêsu, một phụ nữ đã chuộc tội của loài người mà họ bị một phụ nữ lừa dối”. Nhiều vị thánh khác cũng tôn xưng Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ, trong số đó có Thánh lrênê, Thánh Giêrômiô (420), Thánh Phêrô Chrysôlôgô (450), và Thánh Gioan Chrysostom.
Đấng Đồng Công Cứu Độ khi chuyển giao thiên niên kỷ
Thánh Gioan Damascene (khoảng năm 675-749), tiến sĩ giáo hội và là một trong các giáo phụ vĩ đại Hy Lạp, dạy rằng “chính nhờ Đức Mẹ mà chúng ta được cứu độ khỏi lời nguyền rủa” và “nhờ Đức Mẹ mà cả nhân loại được phục hồi”.
Tuy nhiên, đó là một tu sĩ Dòng Byzantine hồi cuối thế kỷ X tên là Gioan Geometer, ngài đã có bước đột phá về thần học khi khai sáng về tính bất khả ly (inseparability) của Đức Mẹ và Chúa Con trong việc hoàn tất công cuộc cứu độ trên đồi Can-vê. Ngài viết trong cuốn “The Life of Mary” (Cuộc Đời Đức Mẹ): “Sau khi sinh Chúa Con, Đức Mẹ không bao giờ rời xa Ngài trong mọi hoạt động và ý muốn của Ngài ... Khi Con đau khổ, Đức Mẹ không chỉ hiện diện bên Con mọi nơi mà còn nhận biết sự hiện diện của Con, thậm chí Mẹ còn chịu đau khổ với Con.. .”.
Chủ đề “bất khả ly giữa Mẹ và Con” trong công cuộc cứu độ sẽ còn được lặp đi lặp lại trong các thế kỷ tiếp theo, nhất là trong các mặc khải cho Thánh Bridget (thế kỷ IV) đã được Giáo hội phê chuẩn.
Thánh hồng y Phêrô Damian (1072), tiến sĩ giáo hội, đã kêu gọi Giáo hội cảm tạ Đức Mẹ, sau Thiên Chúa, về ơn cứu độ: “ ...Chúng ta hoài nghi Thánh Mẫu Thiên Chúa, và ... sau Thiên Chúa, chúng ta nên cảm tạ Đức Mẹ về ơn cứu độ”. Thánh Anselmô (1109), một trong các thần học gia và triết gia lỗi lạc của thời Trung Cổ, đã kêu lên: “Qua Mẹ, chúng con được đến gần Chúa Con, Đấng Cứu Độ thế gian qua Mẹ”.
Thánh Bênađô Clairvaux (1153), arguably the most significant figure of the twelfth century, frequently referred to Mary as “khởi điểm của ơn cứu độ”. Ngài viết: “Ôi Mẹ hồng phúc, Mẹ đã trao ban Con để hòa giải chúng con, làm chúng con thánh thiện và làm vui lòng Chúa. Với niềm vui, Chúa Cha sẽ chấp nhận sự dâng hiến này, lễ hiến tế có giá trị vô hạn”.
Arnold thành Chartres (1160), luật của Thánh Bênađô, lần đầu tiên nói rằng Đức Maria cùng chịu đóng đinh (co-crucified) với Con trên đồi Can-vê và cùng chết (co-dies) với Con: “Điều đã thực hiện nơi thân xác của Đức Kitô với các cây đinh và lưỡi đòng, đó là sự đồng cam cộng khổ trong tâm hồn Mẹ. Mẹ cùng chết bằng nỗi đau khổ của một người mẹ”.
Mặc khải thần bí của thế kỷ 14
Giáo lý về Đức Mẹ Đồng Công có nền tảng sâu xa hơn hồi thế kỷ XIV, qua sự cộng tác thần bí của Thánh Bridget của Thụy Điển (1373), và Thánh tiến sĩ Catarina Sienna (1380). Trong các lần mặc khải đó, đã ghi lại các thị kiến và những lời tiên tri được Chúa Giêsu và Đức Mẹ trao cho Thánh Bridget, không chỉ được Đức giáo hoàng và Giáo hội chấp thuận, mà còn được nhiều giáo hoàng, giám mục và các thần học gia đề cao. Trong các lần mặc khải, Chúa Giêsu nói rõ: “Mẹ Tôi và Tôi đã cứu độ nhân loại bằng một trái tim duy nhất, Tôi chịu đau khổ trong tâm hồn và thể xác, Mẹ chịu buồn sầu và yêu thương bằng trái tim Mẹ”. Để xác định, Đức Mẹ nói: “Con Mẹ và Mẹ đã cứu thế giới bằng một trái tim”.
Thánh Catarina Siena, nhà thần bí của các nhà thần bí, vị tiến sĩ vĩ đại của Giáo hội và đồng bảo trợ Âu châu, đã gọi Đức Mẹ là “Đấng Cứu Độ của nhân loại”: “Lạy Mẹ Maria, Đấng Cứu Độ của nhân loại, vì nhờ trao xác thịt cho Ngôi Lời, Mẹ đã cứu độ thế gian. Đức Kitô cứu độ bằng cuộc khổ nạn, còn Mẹ cứu độ bằng nỗi đau tâm hồn và thể lý”.
Đức Mẹ Đồng công và Chân phước Gioan Phaolô II
Trong số các giáo hoàng của thế kỷ XX, chỉ có ĐGH Gioan Phaolô II thường xuyên dạy rằng Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ. Ngài đề cập Đức Mẹ là Đấng Đồng Công ít nhất 6 lần trong triều đại giáo hoàng của ngài, qua nhiều dạng giáo huấn, cùng cấu thành giáo quyền – các bài giảng, tông thư, huấn thị.
Mặc dù Công đồng Vatican II không minh nhiên nói về Đức Mẹ Đồng Công, Chân phước Gioan Phaolô II vẫn nói rằng Công đồng vẫn dạy sự thật về Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ. Trong buổi tiếp kiến chung ngày 2-4-1997, ngài nói về 70 giáo lý về Đức Mẹ trong hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), trong đó có giáo huấn của Công đồng về Đức Mẹ Đồng công:
“ ...Đức Mẹ chịu đựng cùng Con Yêu Dấu trong nỗi đau cực độ của Con, lòng Mẹ cũng chia sẻ sự hy sinh của Con, và bằng lòng hiến tế chính Con Yêu Dấu của Mẹ. Với những từ ngữ này, Công đồng nhắc chúng ta về “lòng trắc ẩn của Đức Mẹ”; lòng Mẹ phản ánh mọi nỗi đau thân xác và tâm hồn, nhắn mạnh sự sẵn sàng chia sẻ sự hy sinh cứu độ của Con và kết hiệp nỗi đau lòng Mẹ với việc hiến tế của Con. ...Hiến chế Lumen Gentium liên kết Đức Mẹ với Đức Kitô, Đấng giữ vai trò chính trong ơn cứu độ, làm rõ việc Mẹ tự kết hợp với sự hy sinh của Con, còn Mẹ vẫn phụ thuộc Con Thiên Chúa”.
Đức Mẹ có đồng công cứu độ?
Các vị đại thánh, các giáo phụ, các thần học gia và vài giáo hoàng, đã đề cập điều đó. “Đức Mẹ Đồng Công” là lời thúc giục vang dội suốt hằng trăm năm qua trong lịch sử giáo hội, ngay từ thế kỷ II, đã và đang kiến nghị vị đại diện Thiên Chúa là Đức giáo hoàng. Khi chúng ta tiếp tục đọc câu chuyện về Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Độ, Đấng Trung Gian và Trạng Sư, chúng ta hãy nhớ lời của ĐHY Edouard Gagnon, P.S.S., chủ tịch danh dự Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình và Ủy ban Giáo hoàng về các Hội nghị Thánh Thể Quốc tế: “Làm sao thánh danh Đức Mẹ Đồng Công được dùng để tôn vinh Đức Mẹ khi đã được sử dụng bởi các Đức giáo hoàng, các thánh, các chân phước, các nhà thần bí, các tiến sĩ giáo hội, và các thần học gia xuyên suốt lịch sử giáo hội, kể cả ĐGH Gioan Phaolô II ...?”.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ All-About-The-Virgin-Mary.com)