Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

5 Phút cho Lời Chúa 22/9/2016

Filled under:

SỨC MẠNH CỦA SỰ THẬT
Vua Hê-rô-đê nói: “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Rồi vua tìm cách gặp Đức Giê-su. (Lc 9,9)
Suy niệm: Hê-rô-đê tưởng rằng chém đầu ông Gio-an Tẩy Giả – người dám kết án hành vi loạn luân của vua – là đã bịt miệng được kẻ chống lại mình. Thế nhưng, vua chỉ có thể bịt miệng kẻ lên án mình, chứ không bao giờ có thể bịt miệng được sự thật. Các bạo chúa như Hê-rô-đê có thể tiêu diệt được những kẻ lên tiếng bảo vệ sự thật, nhưng chính sự thật thì không bao giờ tiêu diệt được. Trái lại, sự thật ấy luôn trở nên nỗi ám ảnh cho kẻ gây tội ác. Không lạ gì khi nghe tin Chúa Giê-su xuất hiện, Hê-rô-đê cảm thấy bất an. Bởi hơn ai hết, ông hiểu rõ sự xâu xé nơi nội tâm mình: những hành vi đen tối của ông không thể nào chịu nỗi trước sức ép của ánh sáng sự thật. Đúng như lời Chúa Giê-su đã nói: “Kẻ làm điều ác, thì không đến cùng ánh sáng” (Ga 3,20). 
Mời Bạn: Theo tâm lý bình thường, chẳng ai muốn tội lỗi của mình bị phanh phui, nên tìm cách che đậy, như kiểu A-đam và E-và kết lá vả che thân. Nhưng như một thứ ung nhọt, tội lỗi càng che đậy thì càng trở nên nguy hiểm và khó chữa lành hơn. “Duy sự thật mới có thể giải thoát chúng ta mà thôi” (Ga 8,32).
Sống Lời Chúa: Bí tích Hòa Giải không chỉ đem lại ơn tha tội mà còn là phương thế chữa lành hữu hiệu nhất về mặt nội tâm. Tôi siêng năng đến với bí tích hòa giải để tâm hồn được bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Chân Lý, là Ánh Sáng chiếu soi trần gian, xin dùng Sự Thật mà thánh hiến chúng con. Amen. 


Thánh Lorenzo Ruiz và Các Bạn
(1600?-1637)
Lorenzo sinh trưởng ở Manila và bố là người Trung Hoa, mẹ là người Phi Luật Tân, cả hai đều là Kitô Hữu. Bởi thế ngài biết tiếng Tầu và tiếng Tagalog từ bố mẹ, và ngài còn biết tiếng Tây Ban Nha từ các cha Đa Minh mà ngài thường giúp lễ và dọn lễ cho các cha. Ngài sống về nghề chuyên môn viết chữ đẹp (calligrapher), biên chép lại các tài liệu trong một dạng tự tuyệt vời. Ngài là hội viên trung kiên của Hội Ái Hữu Mai Khôi dưới sự bảo trợ của các cha Đa Minh. Ngài lập gia đình và được hai trai một gái.

Cuộc đời Lorenzo thay đổi bất ngờ khi ngài bị kết tội sát nhân. Chúng ta không được biết gì hơn ngoài lời kể của hai cha Đa Minh là "Lorenzo bị nhà cầm quyền lùng bắt vì tội giết người mà ngài có mặt tại hiện trường hoặc họ ghép tội cho ngài ."

Vào lúc đó, ba linh mục Đa Minh, Antonio Gonzalez, Guillermo Courtet và Miguel de Aozaraza, chuẩn bị dong buồm sang Nhật mặc dù ở đó đang bắt đạo dữ dội. Cùng đi với họ có một linh mục Nhật Bản, Vicente Shiwozuka de la Cruz, và một giáo dân tên Lazaro, bị phong cùi. Lorenzo, đang lẩn tránh nhà cầm quyền nên muốn được nhập bọn, và mãi cho đến khi ra tới biển thì Lorenzo mới biết là họ sang Nhật.

Họ đổ bộ ở Okinawa. Lorenzo có thể tiếp tục đến Formosa, nhưng, ngài viết, "Tôi quyết định ở lại với các cha, vì nếu đến đó người Tây Ban Nha sẽ treo cổ tôi." Họ ở Nhật không được bao lâu thì bị lộ tẩy, bị bắt và bị giải đến Nagasaki. Đây là một nơi mà máu người Công Giáo đã chảy thành sông. Khoảng 50,000 người Công Giáo sống ở đây đã bị phân tán hay bị chết vì đạo.

Các linh mục thừa sai, cũng như Lazaro và Lorenzo bị tra tấn một cách dã man: sau khi bị đổ nước vào cổ họng, họ được đặt nằm ngửa trên mặt đất. Một tấm ván dài được đặt trên bụng nạn nhân, và các tên lính đạp lên tấm ván để nước ứa ra từ miệng, mũi và tai nạn nhân.

Vị bề trên của họ, Cha Antonio, đã chết trong cùng ngày. Vị linh mục người Nhật và Lazaro vì khiếp sợ khi bị tra tấn bằng tăm tre đâm vào đầu ngón tay, nên đã chối đạo. Nhưng cả hai đã lấy lại cản đảm khi được các bạn khuyến khích.

Khi đến phiên Lorenzo bị tra tấn, ngài hỏi người thông dịch, "Tôi muốn biết nếu bỏ đạo, họ có cho tôi sống không." Người thông dịch không hứa hẹn gì, và Lorenzo, trong những giờ sau đó đã cảm thấy đức tin mạnh mẽ hơn. Ngài trở nên dũng cảm, ngay cả gan dạ với các lý hình.

Cả năm người bi giết chết bằng cách treo ngược đầu trong một cái hố. Chung quanh bụng của họ bị đeo bàn gông và đá được chất lên các bàn gông để gia tăng sức ép. Họ bị trói chặt để máu luân chuyển chậm hơn và như thế cái chết sẽ kéo dài hơn. Họ bị treo như thế trong ba ngày. Vào lúc đó, Lorenzo và Lazaro đã chết. Ba vị linh mục Đa Minh vẫn còn sống, nên bị chặt đầu.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh cho sáu vị này và 10 người khác, là những người Á Châu và Âu Châu, nam cũng như nữ, là những người đã loan truyền đức tin ở Phi Luật Tân, Formosa và Nhật. Thánh Lorenzo Ruiz là người Phi Luật Tân đầu tiên tử đạo.

Lời Bàn
Là những Kitô Hữu ngày nay, chúng ta tự hỏi không biết làm thế nào để đứng vững trong hoàn cảnh như các vị tử đạo phải đối diện? Chúng ta thông cảm với hai vị đã có lần từ chối đức tin. Chúng ta hiểu giây phút thử thách hãi hùng của Lorenzo. Nhưng chúng ta cũng thấy sự can đảm--không thể giải thích bằng ngôn ngữ loài người--xuất phát từ kho tàng đức tin của họ. Sự tử đạo, giống như đời sống, là một phép lạ của ơn sủng.

Lời Trích
Quan án: "Nếu tao cho mày sống, mày có từ bỏ đức tin không?"

Lorenzo: "Tôi không bao giờ làm điều đó, vì tôi là một Kitô Hữu, và tôi sẽ chết cho Thiên Chúa, và nếu tôi có cả ngàn mạng sống tôi cũng sẽ dâng lên cho Thiên Chúa. Bởi thế, ông muốn làm gì thì làm."

Người Lính Mù

Tại nhà ga Verona, bên Italia năm 1945, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các trại tập trung của Ðức Quốc Xã. Sự xuất hiện của chuyến xe lửa đã khơi dậy những tiếng reo vui tưởng chừng như không bao giờ dứt.
Từ trên xe lửa những tấm thân tiều tụy bắt đầu bước xuống sân ga giữa tiếng cười pha lẫn tiếng khóc của người thân. Cuối cùng, một người lính trẻ mò mẫm bước đi từng bước. Anh từ từ tiến về một người đàn bà già yếu và chỉ đủ sức để thốt lên tiếng "Mẹ". Hai mẹ con ôm chầm lấy nhaữ. Người mẹ già xót xa: "Làm sao một người mù như con lại có thể tìm đến với mẹ?" Người lính mù ấy đáp: "Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ bằng đôi mắt, nhưng trái tim con đã hướng dẫn con".
Người ta không chỉ thấy bằng đôi mắt, nhưng còn bằng chính tâm hồn của mình. Người ta không chỉ hiểu biết bằng lý trí, nhưng còn bằng cả con tim của mình nữa.
Chúng ta không những hiểu được thế giới và con người bằng trí khôn của mình, nhưng còn bằng chính Ðức Tin nữa.