Câu hỏi gợi ý:
1. Đặt mình vào địa vị những người đồng hương với Đức Giêsu thời ấy, bạn sẽ nghĩ thế nào về Ngài? Bạn có nghĩ và hành xử như họ không? Tâm lý nào khiến họ nghĩ và hành xử như vậy?
2. Tại sao Đức Giêsu lại không làm được nhiều phép lạ tại quê hương Ngài? Việc Ngài có làm được phép lạ hay không tùy thuộc vào Ngài hay vào họ? Điều đó khiến ta kết luận thế nào về phần rỗi và việc nên thánh của ta? Thiên Chúa có thể cứu rỗi hay làm ta nên thánh bất chấp sự cộng tác của ta không?
SUY TƯ GỢI Ý:
1. Tâm lý người đời: trọng vọng lời nói của kẻ giàu có, quyền thế, có học vấn
Người ta thường dựa vào những tiêu chuẩn khôn ngoan kiểu loài người để phân định sự việc, điều đó có thể đúng khi áp dụng vào những việc của thế gian (làm ăn, ngoại giao, bon chen, tranh quyền đoạt lợi …). Nhưng nếu áp dụng sự khôn ngoan ấy vào những công việc của Thiên Chúa, vào đời sống tâm linh, vào việc sống đạo … thì thật là sai lầm. Người đồng hương với Đức Giêsu - cùng sinh trưởng tại làng Nagiarét - mắc phải sai lầm ấy. Họ khó có thể chấp nhận được một người nghèo, ít học, thuộc loại lao động tay chân như Đức Giêsu, lại có thể hiểu sâu xa về Thiên Chúa, lại có thể đưa ra những quan niệm mới về Thiên Chúa, về cách sống đạo, về đời sống tâm linh. Nếu có ai nói về Thiên Chúa khiến họ tin được, thì phải là người xuất thân từ trường lớp thần học và có bằng cấp như những kinh sư Do-thái (tức các tư tế, luật sĩ, Pharisêu).
Nhưng nếu dùng ánh sáng hiểu biết của các Kitô hữu ngày nay để nhìn về ngày xưa, ta thấy:
- Đức Giêsu tuy ít học (Ga 7,15), và biết bao người khác tuy ít học nhưng lại hiểu biết về Thiên Chúa sâu sắc hơn những người có học. Trong lịch sử các tôn giáo cũng có những trường hợp tương tự: chẳng hạn trong Phật giáo có trường hợp của Huệ Năng. Trong số học trò của Ngũ tổ, Huệ Năng là người ít học lại thuộc sắc dân mọi rợ (dân tộc ít người, kém văn minh), nhưng ông lại giác ngộ được chân lý sâu thẳm của đạo pháp. Còn Thần Tú, cũng là học trò của Ngũ tổ, vốn là một vị quan thâm nho của triều đình, học rất rộng biết rất nhiều, nhưng lại chẳng giác ngộ được chân lý.
- Các kinh sư hay thần học gia Do-thái xưa, tuy học rộng biết nhiều, nhưng họ chỉ là những người không biết gì khác hơn ngoài sách vở, ngoài những gì đã học ở trường lớp. Những suy tư của họ chỉ là những điều đã được người khác suy tư sẵn. Họ chẳng khác gì những kẻ «nhai lại bã mía», thấy người khác ăn mía khen ngọt, thì mình cũng lấy bã ấy nhai lại và cũng bắt chước khen ngọt. Trong đời sống tâm linh, họ chẳng phân biệt được cái nào là chính yếu và cái nào là phụ thuộc, cái nào là cốt tủy và cái nào là bì phu, cái nào là mục đích và cái nào là phương tiện, nên chẳng biết cái nào quan trọng hơn cái nào. Vì thế, cái không quan trọng thì họ lại đặt rất nặng, còn cái hết sức quan trọng thì họ lại coi rất nhẹ (x. Mt 15,20; 23,16.18). Họ chẳng thông minh, chẳng có tinh thần thích ứng và sáng tạo nào khi áp dụng luật của Thiên Chúa vào đời sống thực tế. Họ chỉ biết áp dụng lề luật một cách nô lệ, hình thức, thiếu hẳn công lý, tình yêu và sự chân thật vốn là cốt tủy của lề luật (x. Mt 23,23; 12,2; 12,10; Lc 6,7; 13,14; Ga 5,10.18; 9,16). Chính vì thế, Đức Giêsu đã gọi họ là «quân dẫn đường mù quáng!» (Mt 23,24), là «người mù lại dắt người mù» (Mt 15,14).
Như vậy, để xét giá trị một lời nói, một hành động, ta phải chủ yếu xét chính lời nói hay hành động ấy xem nó có hợp lý và đúng đắn hay không, chứ không nên chỉ đơn phương căn cứ vào tư cách của người nói điều ấy hay làm hành động ấy.
2. Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay
Những người đồng hương với Đức Giêsu xưa khi nghe Ngài nói thì «nhiều người rất đỗi ngạc nhiên», họ hỏi nhau: «Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?». Khi nhận xét như vậy, đáng lẽ họ phải nhận ra Ngài là một ngôn sứ của thời đại mới đúng. Nhưng khi nghĩ đến danh phận nghèo hèn của Ngài thì họ lại coi thường Ngài: «Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta saỏ». Thế là chỉ vì Ngài ít học, nghèo nàn, mà họ coi Ngài chẳng ra gì, mặc dù họ ngạc nhiên về chính những lời nói khôn ngoan và những phép lạ của Ngài. Và «họ vấp ngã vì Người».
Xét người xưa lại nghĩ đến mình ngày nay. Rất nhiều khi ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ, nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người điên, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Vì thế, nếu ta có tâm lý kiểu đời thường đó mà ở vào trường hợp của những người đồng hương với Đức Giêsu xưa, chắc chắn ta cũng đối xử với Ngài chẳng khác gì họ. Và chắc chắn ngày nay ta cũng sẽ đối xử với các ngôn sứ thời đại mình y như vậy. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Nếu ta hành xử như vậy thì ta chỉ là một người coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Một người như thế không bao giờ thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, dẫu họ có đọc kinh, dâng lễ hay rước lễ siêng năng tới đâu đi nữa. Hãy xem Đức Giêsu coi thường như thế nào những kẻ giàu có, học vấn mà không nghĩ đúng, hành động đúng cho dù người đời có trọng vọng họ tới đâu (x. Mt 23). Là Kitô hữu, chúng ta nên bắt chước Đức Giêsu hay bắt chước thói hành xử của người đời?
3. Để thánh hóa ta, Thiên Chúa cũng phải tùy thuộc vào ta
Bài Tin Mừng cho biết: «Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó» vì họ không tin. Thì ra Đức Giêsu có thực hiện được phép lạ hay không, điều đó không chỉ tùy thuộc vào quyền năng linh thiêng của Ngài, mà còn tùy thuộc vào lòng tin của chính đối tượng phép lạ nữa. Đức Giêsu rất muốn ưu tiên rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ ở chính quê hương của Ngài, vì thông thường ai cũng yêu nơi chôn nhau cắt rốn hay nơi sinh trưởng của mình hơn những nơi khác. Nhưng vì những người đồng hương của Ngài không tin, nên Ngài không làm được việc ấy. Tương tự như vậy, Thiên Chúa muốn cứu rỗi ta, thánh hóa ta, muốn ta nên thánh, được thật sự bình an hạnh phúc, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để thực hiện điều ấy. Nhưng Ngài có thực hiện được điều ấy hay không còn tùy thuộc vào cả bản thân ta nữa, cho dù Ngài rất quyền năng. Vì thế, thánh Âu Tinh nói: «Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài». Nói tới đây tôi nghĩ đến câu thơ của Nguyễn Du trong truyện Kiều: «Có Trời mà cũng có ta», nghĩa là ta cũng đóng vai trò quan trọng, thậm chí có tính quyết định, trong công việc cứu rỗi và nên thánh của chính ta.
Trong việc cứu rỗi và nên thánh của ta, Thiên Chúa đã làm tất cả và luôn luôn sẵn sàng làm tất cả những gì Ngài có thể làm được để giúp ta. Phần còn lại rất nhỏ là sự cộng tác và nỗ lực của ta. Phần này Ngài không thể làm thay thế cho ta được. Cũng tương tự như cha mẹ có thể lo lắng đủ mọi thứ để con cái mình được ăn uống đầy đủ. Nhưng có điều cha mẹ không thể làm thay cho con cái mình được, đó là nhai và nuốt thức ăn vào bụng. Hay như cha mẹ có thể lo cho con đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng không thể nào học thay, nhớ thay, làm bài thay cho con được. Trong việc cứu rỗi hay nên thánh của ta, phận sự của ta là tin tưởng vào Thiên Chúa, ý thức sự hiện diện và hoạt động của Ngài ở trong ta, lắng nghe tiếng nói của Ngài ở trong ta và làm theo những điều Ngài chỉ dạy. Đó là những việc cần thiết ta phải làm, không ai làm thay cho ta được. Nếu ta quyết tâm thực hiện những điều ấy, thì việc cứu rỗi hay nên thánh của ta trở nên rất dễ dàng. Nếu ta không làm, thì Thiên Chúa dẫu có muốn cứu ta, muốn thánh hóa ta cách mấy Ngài cũng đành bó tay. Vậy ta hãy ráng làm hết sức phần của mình.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, quả thật uy quyền, danh vọng, sự sang trọng của những kẻ quyền thế, giàu có, nhiều bằng cấp làm con bị choáng ngợp, khiến con dễ dàng nhận những điều họ nói là đúng mà không cần suy xét gì cả. Nhiều khi chỉ cần suy xét một chút xíu là con có thể nhận ra ngay sự sai trái trong lời nói của họ, mà con lại không chịu suy xét. Còn những kẻ nghèo nàn, nhỏ bé, yếu đuối, ít học mà phát biểu điều gì, thì con tiên thiên bỏ ngoài tai, chẳng cần biết đúng hay sai. Vì thế, nếu con là một người đồng hương với Đức Giêsu xưa, chắc chắn con cũng sẽ coi thường Ngài, chỉ vì thấy Ngài nghèo hèn, thất học. Xin Cha giúp con sửa sai cách hành xử này.