ĐI RA VÙNG NGOẠI
VI
Người bảo các
ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao
giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” (Mc 1,38)
Suy niệm: Ga-li-lê-a thuộc miền Bắc xứ Pa-lét-ti-na, vùng
đất của chư dân, là địa bàn hoạt động công khai của Chúa Giê-su. Tại đó, Ngài
rao giảng, chữa lành bệnh tật, trừ quỷ và làm nhiều phép lạ khác. Ngài ưu tiên
tiếp xúc và tỏ lòng yêu thương những người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ
phong cùi, những người bị xã hội bỏ rơi. Ngài không đóng khung hoạt động của
mình ở nơi đã ổn định nhưng sẵn sàng đi đến những chỗ chưa được biết Tin Mừng.
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô ghi nhận rằng: “Mỗi khi hạt giống đã gieo
tại một nơi, Ngài không ở lại đó để cắt nghĩa hay làm thêm các dấu lạ;
Thần Khí thúc đẩy Ngài ra đi tới các thành khác” (Niềm Vui Tin Mừng, số 21).
Mời Bạn: Mỗi Ki-tô hữu và mỗi cộng đoàn được mời gọi để
“ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần
ánh sáng Tin Mừng.” (Sđd, số 20). Vùng “ngoại vi” có thể là vùng sâu, vùng xa,
theo khoảng cách cây số, nhưng cũng có thể là những vùng cạn, vùng gần, ở ngay
trước cổng nhà, nơi đang có những con người nghèo khổ bất hạnh, đang chịu áp
bức bất công, không đủ điều kiện tối thiểu để sống cho ra một con người.
Sống Lời Chúa: Trong dịp Tết này, tôi đến thăm và giúp đỡ một
gia đình hay một ai đó trong thôn xóm, khối phố, ít khi được người chung quanh
quan tâm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã yêu chúng con trước. Xin cho
cộng đoàn chúng con mạnh dạn có sáng kiến, sẵn sàng ra đi đến với những anh chị
em đang cần chúng con chia sẻ lòng thương xót của Chúa cho họ. Amen.
THÁNH ANSGARIÔ GIÁM MỤC TÔNG ĐỒ XỨ BẮC ÂU
(801-865)
(801-865)
Ansgariô (Anskar) đã trở thành biệt danh Oscar ngày nay, có nghĩa là "cây lao của Thiên Chúa". Ansgariô gốc người Đức, sinh ra tại Picarđia. Cha ngài là một viên chức trong triều đình vua Charlemagne, đã gửi ngài theo học tại tu viện thánh Phêrô ở Corbia. Cậu thiếu niên đã gặp được ở đó những bậc thầy có thế giá. Các môn học trần tục làm ngài say mê đến độ, nơi tâm trí ngài, ý nghĩa tôn giáo ngày một lạt phai! Nhưng một biến cố đã đánh động ngài mạnh mẽ, nhà vua, mà ngài biết được là rất nổi danh nơi triều đình, đã chết. Cái chết đó cho ngài thấy được tính cách hư không của mọi cái gọi là nhân bản và trần tục. Ngài cũng nhớ lại rằng, hồi nhỏ khi mất mẹ, trong một giấc mơ, ngài đã thấy Đức Trinh Nữ hứa sẽ bảo vệ ngài luôn mãi, nếu biết giữ gìn đức tin và lòng mến. Sau cùng ngài cảm thấy rằng Chúa muốn mình làm tông đồ. Từ đó ngài không ngừng tiến tới trong việc học hành cả về đạo lý lẫn việc đời. Ngài nhiệt thành làm tất cả những gì là tốt đẹp. Những tiến bộ và nhiệt tâm ấy lớn lao đến nỗi chẳng mấy chốc tới phiên ngài phải dậy lại cho các tu sĩ trẻ và trẻ em. Vào tuổi hai mươi mốt, ngài đã trở thành một trong các thủ lãnh tu viện Corvey. Ở Saxe hay là Corbia Nova, được thiết lập ngay giữa trung tâm trí thức. Là giáo sư thần học, ngài cũng đảm nhận việc giảng dậy cho dân chúng nữa.
Vào thời này, Harold là vua miền nam Đan Mạch, khi bị bọn phản loạn săn đuổi, đã xin trú ngụ tại triều đình vua Luy đặt tại Mayence. Ông đã trở lại đạo và nhận phép rửa. Khi trở về quê hương, ông đã xin các nhà truyền giáo tới rao giảng Phúc âm cho xứ sở mình. Ebbon, Giám mục Reims, đã dấn thân trước hết, rồi khi gần trở lại nước Pháp, ngài đã chỉ định Ansgariô. Ansgariô lên đường với một tu sĩ nữa. Họ dám liều đi vào miền còn hoàn toàn ngoại giáo. Những người trẻ bị bắt làm nô lệ đã trở thành các Kitô hữu đầu tiên của xứ sở. Công việc tông đồ thật vất vả nhọc mệt. Các ngài bị trục xuất, các tu sĩ trở lại lãnh trách nhiệm.
Một toà đại sứ Thụy Điển xin các thừa sai. Lần này Ansgariô ra đi với một tu sĩ người Corbia. Vì người bạn đường cũ đã chết khi đi qua biển Baltica, họ bị bọn cướp tấn công bóc lột hết và bị người Nang lấy trọn quà tặng họ mang dâng nhà vua ở Upsala. Các nhà truyền giáo tới biệt thự của Birca, hoàn toàn trơ trụi. Tại đây các ngài đã thiết lập một cộng đoàn Kitô hữu. Sau một năm rưỡi mệt nhọc làm việc tông đồ, các ngài trở về Pháp. Nhà vua đã đặt Ansgariô làm Tổng Giám mục Hambourg bao gồm miền Scandinavia (Bắc âu). Ansgariô đi Rôma để được Đức Thánh Cha bổ nhiệm và Đức Grêgôriô IV đã đặt ngài làm đại diện tại cả Na Uy và Thụy Điển. Ngài xây cất một nhà thờ chính toà ở Hambourg, thiết lập một tu viện cho các tu sĩ Corbia. Người ta thấy ngài quỳ dưới chân người nghèo và khiêm tốn phục vụ họ. Ngài cũng rao giảng trong các miền lân cận bất kể những thù nghịch hung ác. Khi ấy, như một đám mây người Normanđia đặt Hambourg vào vòng máu lửa, Ansgariô chỉ còn là một kẻ lang thang sống vất vưởng. Charles le Chauve đã chiếm một tu viện miền Flandre là nơi ngài đã thiết lập một trường truyền giáo. Giữa cao điểm của cuộc sống khốn cực âu lo, ngài đã không hề mất lòng trông cậy vào Chúa. Cuối cùng những kẻ bách hại bị xua đuổi. Xứ truyền Giáo Thụy Điển lại vùng lên.
Một cộng đồng ở Constanê đã đặt Ansgariô làm Giám mục Brême. Ngài trở lại truyền giáo ở Đan mạch, thiết lập một trung tâm tôn giáo mới, cải hoá nhà vua.
Ansgariô muốn hiến trọn đời mình cho Thiên Chúa bằng việc tử đạo, nhưng ngài đã qua đời êm ái tại Brême năm 865.
Cuộc tử đạo của ngài chính là cuộc chiến kiên trì suốt đời với nhiều những thất bại, lại ít có những thành công rực rỡ. Nhưng sự nhẫn nại của vị anh hùng Giám mục lang thang này đã chuẩn bị cho cuộc trở lại các xứ vùng Bắc âu.
Lạy Cha Chúng Con Ở Trên Trời
Con gái ông Karl Marx có lần thú nhận với người bạn gái từ thủa nhỏ bà không được huấn luyện cho biết có Tôn giáo và Tín ngưỡng cũng như chính bà không cảm thấy mình có một tâm tình tôn giáo hay tin tưởng vào một thực tại vô hình nào.
Nhưng bà tâm sự tiếp: mộ ngày kia bà tình cờ đọc được một kinh của người Kitô mà bà thầm mong ước là những câu kinh ấy được biến thành sự thật.
Nghe nói thế, người bạn gái của bà không khỏi ngạc nhiên và tò mò hỏi: "Kinh gì mà hay thế?". Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi này, người con gái ông Karl Marx chậm rãi đọc bằng tiếng Ðức: "Vater unser im Hinmel� Lạy Cha chúng con ở trên trời�".
Có một Giám Mục kia trên đường kinh lý giáo phận, ghé thăm gia đình một bà lãọ Người ta nói bà là một tấm gương cho cả lòng soi chung. Trong khi thăm, vị Giám Mục hỏi:
- Bà thường hay đọc sách đạo đức nào nhất?
- Thưa Ðức Cha con không biết đọc, bà cụ trả lờị Nghe nói thế, vị Giám Mục tiếp tục hỏi: "Nhưng bà hay cầu nguyện cơ mà?". Thấy Giám Mục đã biết bí quyết của mình, bà cụ thật thà thưa:
- Thưa Ðức Cha, con chỉ biết tràng hạt thôi: Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Tin Kính. Một ngày con khởi sự đọc đến mười lần nhưng thường thì con không đọc xong.
- Tại sao thế? Vị Giám Mục muốn biết. Bà cụ thuật tiếp:
- Tại vì khi con bắt đầu đọc: Lạy Cha chúng con� Con bỗng không hiểu sao Chúa có thể tốt lành đến mực cho phép một bà già hèn mọn như con được gọi ngài là Chạ Ðiều đó làm cho con phải khóc và rồi con không thể nào đọc tiếp hết chuỗi được. Nghe thuật lại kinh nghiệm trên, vị Giám Mục khuyến khích:
- À, này bà cụ, đó là lời cầu nguyện trị giá bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng tôị Bà cứ tiếp tục và luôn cầu nguyện theo câu đó.
Tục ngữ Việt Nam có câu: "Gần chùa gọi bụt bằng anh". Ðó là tâm tình thông thường của con ngườị Bởi lẽ những thực tại dù to lớn đến đâu, nếu đã trở nên những công việc hằng ngày thường bị hạ thấp giá trị.
Ước gì Kinh Lạy Cha giúp chúng ta ý thức thật sâu đậm về sự thật: Thiên Chúa là Cha chúng ta, như bà cụ đơn sơ trong câu chuyện trên đã cảm nghiệm được, đồng thời giúp chúng ta sống và thực hành những gì chúng ta luôn miệng cầu khẩn trong kinh Lạy Cha.