TOÀN CẦU HOÁ SỨ MẠNG
Một người đàn bà
có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Chúa Giê-su, liền vào sấp mình
dưới chân Người. Bà là người Hy-Lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri.(Mc 7,25-26)
Suy niệm: Chia sẻ
tâm thức chung của người Do Thái, ban đầu Đức Giê-su dường như nghĩ rằng sứ
mạng thừa sai của Người chỉ giới hạn nơi dân tộc Ít-ra-en thôi. Nhưng rồi trong
thực tế Người đã nhận ra rằng sứ mạng của Người không biên giới. Câu chuyện Đức
Giê-su trừ quỉ cho con gái người đàn bà xứ Phê-ni-xi hôm nay là một câu chuyện
kinh điển minh họa điều nói trên. Đức Giê-su có một sứ mạng phổ quát, vì ơn cứu
độ mà Người mang đến là dành cho hết mọi người. Người ‘toàn cầu hóa’ sứ mạng,
bởi ở đâu cũng có nghèo túng, bệnh tật, khổ đau và bế tắc. Một người con gái
đang bị quỷ ám; một người mẹ đang cần Vị Cứu Tinh cho con mình, cũng là Đấng
cất khỏi mình những khổ đau năm tháng; một người trí thức đang bên bờ tuyệt
vọng khi nhìn về tương lai; một người giàu có đang đứng trước ngõ cụt khi khám
phá rằng vật chất và quyền thế không phải là tất cả; một người nghèo đang vật
lộn với cuộc sống; một gia đình đang khốn đốn vì nguy cơ tan vỡ rình rập; một
bệnh nhân đang mất dần niềm tin vì cơn bệnh dai dẳng, v.v… Tất cả đang cần được
cứu.
Mời Bạn: Nhìn xa
hơn hàng rào nhà bạn để thấy người hàng xóm đang cần đến Chúa.
Chia sẻ: Kinh
nghiệm của bạn về việc ‘bước đến tận nhà’.
Sống Lời Chúa: Bước đến
tận nhà một người khốn khổ để thi hành sứ mạng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa,
xin cho con dám nhìn xa hơn và dám bước đến với những người đang cần
Chúa. Con là người của Chúa, xin cứ sai con đi.
LẬP DÒNG
(1481-1537)
(1481-1537)
Năm 1528, người miền bắc Ý phải trải qua một nạn đói thê thảm do sự bóc lột của bọn quân phiệt Tây Ban Nha. Quay lại cuốn phim cảnh đói khổ của đồng bào họ, trong đầu óc người dân Ý không một ai mà không phải rùng mình kinh sợ. Những phần đất đai trù phú nhất cũng hoá hoang vu, nơi hoành hành của từng bầy sói đói. Từ năm 1528 cơn đói đã lên tới tột độ. Dân chúng trước đây vẫn không quen ăn thịt chó, mèo, chuột, nay coi đó như những món cao lương mỹ vị.
Những con người sống giở chết giở vì đói lũ lượt kéo về thành Vênêtia (Venise) khiến ở đây cũng bị đói lây. Bên những bàn tay thực dân bóc lột, trước những cùng cực khốn khổ đó, người ta thấy không thiếu những bàn tay anh hùng, quảng đại, bác ái và hăng hái hoạt động, đã giang rộng ra để đón tiếp, nâng đỡ và xoa dịu những nhịp đập cồn cào của bao tử rỗng tuếch. Trong số những vị anh hùng ân nhân của nhân loại đó, phải kể vào hàng đầu, con người quý phái của thành Vênêtia là Giêrônimô Êmilianô mà chính tên theo tiếng ý là Girolamo Miani.
Phải chăng con người có đức bác ái anh hùng đó sinh ra đã sẵn có một nếp sống như thế, hay cũng đã phải ba chìm bẩy nổi rồi mới được như thế? Cứ nhìn vào con người thánh Inhaxiô vị sáng lập Dòng Tên, chúng ta đã có một câu trả lời khá đầy đủ rõ rệt.
Vênêtia, thuộc Ý, về mạn đông bắc, trên bờ biển Adriatica, là một thành phố thơ mộng "bồng bềnh" giữa làn nước biếc. Năm 1481, Vênêtia hân hạnh được đón nhận một em bé chào đời, em bé đó mai ngày sẽ là vinh dự cho Vênêtia nói riêng và cho Giáo hội Công giáo nói chung: Girolamo Miani hay Giêrônimô Êmilianô.
Lớn lên, Êmilianô gia nhập quân đội như Inhaxiô. Nhưng Inhaxiô luôn sống trong trật tự với một tinh thần kiêu hãnh sẵn có trong huyết thống Tây Ban Nha; còn Êmilianô có thể nói được lại sống thời thanh xuân bạt tử, hiếu chiến và vui chơi như bao quân nhân đồng thời đồng hương của ngài. Trong trận chiến đấu với quân bảo hoàng của thành Castelnôvô gần Trêvi (Trévise) ngài bị bắt và bị xiềng xích. Nhân bị chiến thương mà đã xoay hẳn lại cuộc đời. Và cũng như Inhaxiô, Êmilianô vừa được Đức Mẹ cứu một cách lạ, liền đến tạ ơn Đức Mẹ thành Trêvi mà dân thành Vênêtia rất sùng mộ, và quyết tâm hiến thân phụng sự Người. Để chuộc lại quãng đời quá khứ không tốt đẹp mấy, ngài hằng ra sức thống hối và thực hành bác ái. Ngài thường nguyện rằng: "Lạy Chúa Giêsu nhân từ, xin hãy đối xử với con như vị cứu tinh của con, chứ đừng như vị quan án công thẳng".
Ít lâu sau Êmilianô được thăng làm thị trưởng thành phố Castelnuôvô một thời gian. Nhưng chí đã không màng tưởng công danh, ngài lui về Vênêtia, chuyên cần giáo huấn các cháu và lo tự trau dồi học thức chuẩn bị chịu chức linh mục. Năm 1518, ngài thụ phong linh mục và từ đó tận hiến hoàn toàn cho công cuộc bác ái và kết thân với Gioan Phêrô Carapha Giám mục thành Kiêti đồng thời nhận Carapha làm cha linh hướng.
Năm 1528 một năm đói kém khủng hoảng, như đã nói trên, lại thêm bệnh truyền nhiễm lan tràn đó đây khiến tử thần càng thêm lộng hành dữ dội. Người chết đầy đường không ai chôn cất. Cha Êmilianô bán tất cả đồ đạc của ngài để cứu trợ những người đồng hương khốn khổ, đêm đêm ngài đi lượm xác chết đem chôn táng cẩn thận. Vì quá tận tâm ngài đã bị lây bệnh và cơn bệnh đã nên một dịp tập luyện rất tốt cho cuộc đời trọn lành của ngài. Được khỏi bệnh, cha bán hết mọi của tư hữu, để hoà mình hoàn toàn với những kẻ đói nghèo mà ngài yêu mến; ngài ăn vận như những người ăn mày. Nhất là khi thấy từng bầy trẻ mồ côi, vất vưởng, không ai màng đến, ngài thu tập chúng lại, lập thành cô nhi viện tại San Rocco. Ở đây ngài lo săn sóc chúng hồn xác. Ngài thật là một nhà dậy giáo lý nhiệt thành, có biệt tài về cách dậy giáo lý theo phương pháp đối thoại, đồng thời cha chăm lo dậy thủ công cho chúng. Nhờ đó ngay từ thiếu thời, chúng đã quen chịu khó để không ăn bám vào người khác như lời người cha hiền của chúng thường nhắc nhủ chúng: "Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ", cũng như thánh Phaolô xưa thường khuyên nhủ giáo đoàn Texalonica rằng: "Ai không làm thì không được ăn" (2 Tx 3, 11)
Lòng bác ái của cha Êmilianô thực như nước triều dâng; dâng qua miền bãi biển Vênêtia, rồi tràn vào mãi trong nội địa các thị trấn Brescia, Bergame và cả Milanô nữa. Ở Brescia và Bergame ngài thiết lập nhiều cô nhi viện. Riêng ở Bergamô ngài còn lập một nhà cải huấn những thiếu nữ trụy lạc để đưa họ về đường ngay nẻo chính. Ngài còn lo khuếch trương chương trình hoạt động của mình bằng cách giáo huấn dân chúng nông thôn, săn sóc bệnh nhân. Có nhiều linh mục ưu tú và giáo dân sốt sắng cộng tác với ngài. Nhờ thế mà ngài thành lập được một tu hội, trước hết chuyên lo điều khiển các cô nhi viện do ngài sáng lập, sau đó lo cho cả những kẻ khốn khó, những người nghèo nàn, đau yếu, dốt nát. Nhân việc đặt trụ sở tại Somasca gần Bergamô năm 1532 mà dòng ngài lập mang tên là dòng Somasca và được Đức Giáo Hoàng Phaolô III chấp nhận với sắc lệnh đề ngày 05-07-1540.
Vì quá nhiệt tâm với những con bệnh dịch tễ, nên cha đã lây bệnh mà chết tại Somasca ngày 08-02-1537. Chết đi ngài không kịp chỉ ai nối vị. Vì thế các bạn ngài theo thói quen như cha vẫn làm là hỏi ý kiến nơi Carapha, bấy giờ là Hồng Y và là vị sáng lập dòng Têatinh (Théatinh). Các ngài muốn sát nhập vào dòng Têatinh và Đức Giáo Hoàng uỷ thác công việc cứu xét ý định ấy cho Đức Hồng Y Carapha. Sau bao cuộc thăm dò ý kiến đôi bên, Đức Hồng Y Carapha quyết định ưng chuẩn và được Đức Giáo Hoàng chấp thuận ngày 08-10-1546. Nhưng thực ra mãi năm 1547 mới sát nhập thực sự. Đến năm 1555 hai dòng lại tách ra và năm 1565 các tu sĩ Somasca mới có nhà chính ở nhà thờ thánh Mayộ Pavia lại đứng ra lập thành một dòng riêng biệt lấy tên là dòng "Các Giáo sĩ dòng thánh Mayơ đệ Pavia". Dòng này hiện nay có mười nhà và tất cả đều ở trên đất Ý.
Nhân loại vẫn chưa hết sự bóc lột đói khổ, bệnh tật… Nhân loại đang chờ đợi kêu gào những bàn tay bác ái lăn xả vào mà nâng đỡ những cơ cực của họ. Chúng ta hãy noi theo tinh thần thánh Êmilianô, biết quên mình phụng sự cho hạnh phúc nhân loại, hầu làm cho đời sống của những người xung quanh ta được bớt phần đau khổ và cay cực một phần nào. Hãy rộng tay ban phát cho kẻ nghèo khó thì sẽ được Chúa thương và trả gấp lại trăm.
Sống Lạc Quan
Năm 1989,một cuộc thi toán quốc tế đã được tổ chức cho các thiếu nhi 13 tuổi thuộc sáu quốc gia trên thế giớị Kết quả cuộc thi đó cho thấy giỏi toán nhất là các em Ðại Hàn, kế đó là các em Tây Ban Nha, Anh Quốc, Ailen, Canada và đội sổ là các thiếu nhi Hoa Kỳ.
Song song với cuộc thi toán ấy, người ta cũng làm một cuộc thăm dò với chính các thiếu nhi cũng thuộc lứa tuổi ấy. Người ta đặt một câu khẳng định như sau: "Tôi là người giỏi toán". Kết quả cuộc thăm dò cho thấy lạc quan nhất là các trẻ em Hoa Kỳ và bi quan nhất lại chính là các em Ðại Hàn. Gần 70% các em Hoa Kỳ tự nhận mình là giỏi toán trong khi đó chỉ có khoảng 20% các em Ðại Hàn tự nhận mình có thực tài.
Qua cuộc thi toán và thăm dò trên đây, người ta thấy rằng có thể các thiếu nhi Hoa Kỳ không phải là những trẻ em giỏi toán, nhưng chúng đã tiếp thu rất kỹ bài học về tính lạc quan do các thầy cô không ngừng giảng dạy tại trường. Nhiều nhà giáo dục người Mỹ muốn chứng minh rằng nghiện ngập, chửa hoang, bỏ học và hầu hết các tệ đoan xã hội khác đều có thể được giảm bớt nếu con người biết sống lạc quan, nghĩa là biết tự nhận và cảm thấy mình là những con người tốt.
Lạc quan là đức tính cơ bản nhất để thành công trong cuộc sống. Có tin tưởng nơi chính mình, có tin đời, có tín nhiệm nơi người khác, người ta mới dám bắt tay vào việc. Ngay cả khi gặp thất bại, thử thách, người lạc quan cũng không lùi bước, bỏ cuộc.
Trong cuộc sống đức tin, lạc quan là một trong những nhân đức quan trọng nhất. Người tín hữu lạc quan là người luôn đặt tất cả tin tưởng nơi Thiên Chúạ Người tín hữu lạc quan là người không bao giờ thất vọng về chính mình. Người tín hữu lạc quan cũng là người không bao giờ thất vọng về người khác.
Ðá tảng để người tín hữu xây dựng sự lạc quan của chính mình là Tình Yêu của Thiên Chúa, một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán, đo lường và sự tưởng tượng của con người, một tình yêu thủy chung.
Tình yêu ấy nói với con người rằng, không có một con người nào đốn mạt, yếu hèn, xấu xa đến nỗi Thiên Chúa đành phải bó tay.
Tình yêu ấy nói với con người rằng, nơi nào có tội lỗi và phản bội càng nhiều, thì nơi đó ân phúc được thi ân dồi dào hơn.
Tình yêu ấy nói với con người rằng, đau khổ, cái chết chưa là tận cùng mà là khởi đầu của vinh quang, của sự sống. Tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, tình yêu ấy không bao giờ bỏ cuộc, đầu hàng.