Lầm lũi trong màn đêm tuyệt vọng, anh ta lê những bước mệt nhọc trên con đường dài thăm thẳm. Sau sự thất bại này, anh ta tự nhủ sẽ không tin vào một ai nữa, sẽ chẳng còn đặt hy vọng vào bất cứ điều gì. Anh xác tín rằng, cuộc đời sẽ ổn hơn khi bước đi trong tính toán và đề phòng. Nhưng rồi càng sống với xác tín riêng ấy, anh lại càng chìm vào trong khoảng không rộng lớn, một sự cô đơn bao trùm trong cuộc sống của anh …nhìn đâu cũng thấy loáng thoáng những con người mà anh cho rằng mình nằm lòng điều họ nghĩ, hàm chứa những xét đoán nặng nề; những tính toán về công việc và đề phòng mọi thứ trong cuộc sống. Anh đang đóng lại mọi cánh cửa…
Trong cuộc sống vốn đầy hỗn độn của thời đại này, có lẽ đâu đó ta gặp những con người như vậy hay chính ta cũng đã từng ít nhiều trải qua những cảm xúc tương tự. Lối nhìn về cuộc sống của nhiều người đôi khi chất chứa đầy nghi ngờ, hình thành nên một con tim khép kín. Trong đó, việc ai đó đặt niềm tin của mình vào bất cứ điều gì thì được cho là một suy nghĩ ngược dòng và đầy mạo hiểm.
Ai đó đã từng kinh nghiệm rằng, có những thứ ta càng cố thu tích cho mình nhiều, cuộc sống lại càng phức tạp. Một ví dụ điển hình trong thời này là những lớp về kỹ năng thành đạt đang trở nên thịnh hành và thậm chí còn rất thu hút. Những gì người ta đưa ra hầu hết sử dụng thuật đắc nhân tâm như một phương tiện cốt yếu để đạt tới thành công. Nhưng có điều nghịch lý là, càng tỏ ra tinh thông những thủ thuật, càng thủ đắc nhiều kinh nghiệm về đắc nhân tâm, đời sống nội tâm lại càng thấy trống rỗng và bế tắc. Họ nhận thấy một sự phức tạp trong chính suy nghĩ của mình. Đầu óc trở nên nặng nề với những tính toán, rập khuân và định kiến. Chính vì vậy, họ đánh mất khả năng mở ra trước những điều mới mẻ của cuộc sống. Người ta sợ phải đối diện với những điều lạ lẫm trong danh sách đã thủ đắc; ngại đổi mới, e dè với những gì không nằm trong kế hoạch của mình. Cánh cửa tâm hồn dần đóng lại.
Trong lối nhìn về con người, chỉ có hai gam màu trắng và đen, họ nhìn nhận về một người một tốt một xấu, không còn chỗ để phân định, không còn nơi dành cho sự cảm thông và nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn. Bầu không khí nghi ngờ lan tràn trong xã hội khiến cho người ta đề cao hơn cả sự an toàn, do đó họ đúc khuôn cả tương quan. Họ ưa lối nhìn thành kiến. Lối nhìn ấy phá hủy những cuộc gặp gỡ chân thành và cởi mở. Người ta dễ dàng dán nhãn người vùng này sẽ có tính cách và hành xử thế này; người miền kia chắc phải nghĩ thế kia. Nhưng chính sự dán nhãn ấy lại khiến họ giới hạn sự khám phá tính mới mẻ nơi con người. Dĩ nhiên, văn hóa vùng miền có ảnh hưởng tới từng cá nhân, nhưng thay vì đón nhận để cảm thông, lối nhìn định khuân đó là một rào cản lớn trong việc thiết lập mối tương quan trong cuộc sống. Cánh cửa này khép kín với con người.
Cuối cùng và căn bản hơn cả là khi cánh cửa tâm hồn đang đóng lại, không cho phép niềm tin hiện diện trong cuộc sống của mình. Một cuộc sống mà trong vỏ bọc lý trí, họ bóp nghẹt những tiếng thầm thĩ từ sâu thẳm tâm hồn, bịt tai trước tiếng nói của trái tim và do đó, làm ngơ trước lời mời gọi liên đới với người khác. Khi ấy, họ loay hoay trong chính mình, tự nhốt trong cái bóng tự phụ và sống tách biệt với con người. Cánh cửa tâm hồn bị khóa chặt.
Cuộc sống của anh ta có thể có những ngã rẽ khác nhau tùy vào chọn lựa. Một là sự buông bỏ tất cả để mỗi ngày là một hành trình khám phá những điều mới mẻ của cuộc sống; sẵn sàng để ngỏ mọi biến cố xảy đến, mở ra với mọi con người mà anh ta gặp gỡ. Chọn lựa này có bất trắc, nhưng cũng mở ra hy vọng cho cuộc sống. Hai là phác thảo một kế hoạch chắc chắn, an toàn. Mọi thứ sẽ là kế hoạch; mọi người đều đã nằm trong khuân suy nghĩ của mình; mọi biến cố phải diễn ra đúng như dự tính. Cuộc sống như vậy có thể an toàn, nhưng chất chứa sự khô khan, đầy bế tắc. Anh ta có quyền đóng hay mở cánh cửa tâm hồn của mình.
Joseph Trần Ngọc Huynh, S.J.
Sống sự khó nghèo
Chúng ta đã nói nhiều về khó nghèo, về ý nghĩa, mục đích của nó, cũng như những điều có thể làm nguy hại đến nó. Nhưng rốt cuộc, phải sống sự khó nghèo thế nào? Biết là phải sống thanh đạm, không dính bén… nhưng cụ thể là thế nào? Thực ra, việc sống sự khó nghèo còn tuỳ thuộc vào mỗi dòng tu với những chỉ dẫn và quy định riêng sao cho phù hợp với thể chế, linh đạo và đường hướng tông đồ. Lối sống nghèo của các Đan Viện sẽ không giống của dòng khất thực hay dòng tông đồ… Tuy nhiên, dù sao đi nữa, thiết nghĩ cũng có một vài cách hành xử được cho là chung mà bất cứ người tu sĩ nào cũng phải nên có để theo đuổi sự khó nghèo theo tinh thần Tin Mừng.
Phải tránh hết sức có thể một thái độ “để dành” của riêng để có cái đảm bảo. Phải đặt làm của chung tất cả những gì mình có. Bằng lòng với mọi cái nhận được từ cộng đoàn, vâng phục những phán quyết của bề trên về khó nghèo và không làm điều gì căn trở hay nghịch lại. Những gì mình không xài mà vẫn còn sử dụng được thì nên san sẻ với người khác, chứ không được bỏ đi một cách hoang phí, nhưng cũng không nên để cho người khác sử dụng “đồ thừa” của mình, còn mình thì tìm kiếm những gì tân tiến nhất.
Cũng cần thiết và là một sự trợ giúp khi các tu sĩ viết thu chi điều độ, đúng đắn để có thể điều chỉnh khi cần thiết. Việc làm giấy thu chi (dù cha quản lý có yêu cầu hay không) hay ít ra là một sự suy xét và cân nhắc về những chi tiêu của mình sẽ giúp người tu sĩ bỏ đi thái độ “muốn làm gì thì làm”. Họ sẽ ý thức hơn khi biết rằng mình đang sử dụng những đồng tiền từ mồ hôi ước mắt của người khác, và bất cứ một sự lãng phí nào cũng không thể chấp nhận được. Họ có thể bỏ ra một số tiền lớn để làm điều gì đó nếu nó cần thiết và có lợi ích, nhưng tuyệt đối không được đánh mất một đồng nhỏ để làm chuyện không đâu. Tiền bạc mà họ có trong tay là tiền của cộng đoàn, của dòng, chứ không phải của họ. Cũng có thể có những sai lầm trong việc chi tiêu. Điều này có thể chấp nhận được, nhưng tuyệt đối đừng xem chuyện đó như không có gì, có thể cho qua một cách dễ dàng.
Trong việc sử dụng các vật dụng trong cộng đoàn, hãy sử dụng một cách khôn ngoan, tiết kiệm, và đừng bao giờ coi mình là chủ sở hữu tuyệt đối của nó. Nhưng cũng đừng bủn xỉn đến độ khiến cho đời sống trở nên ngột ngạt hay làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của các thành viên. Ví dụ, khi thức ăn đã ôi thiu, thì đừng vì sợ mắc lỗi khó nghèo mà ráng ăn nó để rồi phải nhập viện. Điều này chẳng những đi ngược lại với sự khó nghèo mà còn bị cho là thiếu khôn ngoan. Tiêu chí để mình mua hay sử dụng điều gì đó chính là sự cần thiết, chứ không phải vì thích. Có thể mua một chiếc xe để có phương tiện đi lại và làm việc tông đồ, chứ không nên mua chỉ vì thấy nó đẹp và hợp thời trang. Những vật dụng trong cộng đoàn nên là loại phổ thông, chứ không nên là loại cá biệt. Chén bát có thể mua loại bình thường, tuy mắc tiền một chút, nhưng bền và xài lâu (và như thế sẽ tiết kiệm tiền), chứ không cần phải mua loại có trạm khắc nghệ thuật cầu kỳ, vật liệu hiếm…
Dĩ nhiên, trước khi vào dòng và trước khi khấn đầu, khấn cuối, phải từ bỏ của cải theo quy định của Giáo hội và luật Dòng và phải luôn ý thức về ý nghĩa của sự từ bỏ này. Đừng từ bỏ theo một kiểu tạm thời để rồi thu vén lại. Cũng đừng giả vờ từ bỏ để cố gắng thu lại một món hời to hơn, như kiểu kinh doanh. Từ bỏ của cải, và phải cố gắng từ bỏ luôn ước muốn có của cải. Trong quá trình đào luyện, cũng nên để cho các tu sĩ trải qua những thử nghiệm sống với người nghèo thực sự để giúp họ hiểu hơn về cái nghèo và nhận định về ơn gọi của mình, xem thử mình có thể mang lấy điều kiện của người nghèo với một sự sẵn sàng hay không. Trước khi xin phép bề trên để mua và sử dụng điều gì đó, hãy có một sự suy xét cho kỹ. Đừng để bề trên nhận định thay cho mình. Chính bản thân mình phải biết đâu là điều cần thiết, đâu là điều không cần thiết trước khi mở lời. Sự khó nghèo cũng bao hàm cả việc sẵn sàng nghe theo phán quyết của bề trên, cả khi bề trên không chấp nhận lời cầu xin của mình vì một lý do nào đó.
Trong quá trình làm việc tông đồ, hãy mang lấy một tinh thần vô vị lợi. Được phục vụ người khác là niềm hạnh phúc của mình, là ơn gọi của mình và là lý do vì sao mình chọn đời tu. Phục vụ của người tu sĩ không phải là một kiểu làm công ăn lương. Vì thế, hãy tránh bao nhiêu có thể sự sòng phẳng. Đặc biệt, cần có một sự liên đới, hiệp thông, chia sẻ với người nghèo. Hãy sống, hành xử, nói năng như một người bình dân, tạo niềm tin nơi họ, gần gũi với họ và giúp đỡ họ về mặt vật chất và tinh thần khi có thể, nhưng hãy tránh thái độ ban phát như thể mình là người ban ơn và người kia phải biết ơn mình. Khi đến với người nghèo, cần có lòng bác ái, và cũng đòi hỏi một sự tế nhị để không làm tổn thương đến lòng tự trọng của họ.
Có một yếu tố rất quan trọng không thể không nói đến liên quan đến sự khó nghèo, đó chính là yếu tố lao động. Sự khó nghèo trong đời tu cũng đòi hỏi người tu sĩ phải không ngừng lao động, theo những cách thức và mức độ khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh. Có người có tư tưởng rằng dòng mình đã có đầy đủ rồi, không cần phải lao động hết sức hoặc nếu phải lao động để kiếm sống như bao người khác vậy thì đi tu để làm gì. Người ta đi tu không phải chỉ để ăn với uống, nằm đó để người khác phục vụ. Họ phải lao động vì nhiều lý do khác nhau. Trước hết, lao động là quy luật tự nhiên, phải có làm thì mới có ăn. Lao động thể hiện trách nhiệm của mình đối với các thụ tạo khác. Lao động cũng tạo ra nguồn vui cho chính mình. Lao động giúp ngăn ngừa những cám dỗ vì nhàn cư vi bất thiện. Lao động giúp nâng cao tâm hồn, mở rộng trí tuệ, phát triển tài năng, được tham gia vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Lao động để phục vụ cộng đoàn, sống liên đới với người khác, giúp tạo kỷ luật bản thân cũng như có sự quân bình trong cuộc sống. Khi lao động, người tu sĩ có thể tự chu cấp cho mình và cho cộng đoàn, đồng thời hướng đến tha nhân.
Tuy nhiên, lao động của người tu sĩ không phải là kiểu làm ăn kiếm cơm. Người tu sĩ lồng vào trong hoạt động lao động của mình sứ mạng tông đồ. Người tu sĩ có thể lao động bằng cách cuốc đất trồng cây, giảng dạy, cầy cấy, nghiên cứu, viết sách, giúp tĩnh tâm, dâng lễ, thực thi các sứ mạng hoặc các thừa tác vụ khác nhau do bề trên giao, hay có khi chỉ là những hoạt động âm thầm khác chỉ trong phạm vi cộng đoàn. Dù làm những việc to tát hay nhỏ bé chẳng ai biết đến, người tu sĩ luôn đặt mình trong tư thế phục vụ. Họ không chỉ làm việc để có cái đảm bảo cuộc sống nhưng còn thổi vào trong công việc của mình một ý hướng mang Chúa đến cho tất cả mọi người. Sống đời khó nghèo chính là mang lấy tinh thần và lối sống như thế.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ