MỤC TỬ NHƯ LÒNG CHÚA
“Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?” (Lc 15,4)
Suy niệm: Theo Thánh Kinh, mục tử vừa là thủ lãnh, vừa là người bạn đồng hành với đàn chiên. Mục tử vừa là người hùng mạnh có sức gìn giữ đàn chiên, vừa là người biết chăm sóc đàn chiên, biết bồng ẵm chúng trên tay, biết đem chiên đến đồng cỏ non, đến chỗ nghỉ ngơi, nhất là biết băng bó cho chiên bị thương tích. Nhiệm vụ của mục tử là qui tụ đàn chiên chứ không loại trừ, vì thế, dù chỉ một con chiên lạc người mục tử cũng phải đi tìm cho kỳ được. Hội Thánh được mạc khải và nhận ra Chúa Giê-su chính là mục tử mẫu mực, mục tử như lòng Chúa Cha mong ước. Ngài chăm lo qui tụ mọi hạng người, vượt ra khỏi quan niệm hẹp hòi về “đàn chiên” của người đương thời. Nhà của những người bị loại trừ, bị xa lánh, lại là địa chỉ Ngài thường hay lui tới để đưa họ về trong đàn chiên của Thiên Chúa. Nhiệm vụ này đòi hỏi mục tử Giê-su phải hy sinh lớn lao, kể cả mạng sống.
Mời Bạn: Mọi Ki-tô hữu đều là những mục tử: mục tử cha, mục tử mẹ, mục tử anh, mục tử chị, mục tử linh mục, mục tử giáo dân. Vai trò này chúng ta nhận được từ Chúa Giê-su và tiếp nối Ngài để sống hôm nay. Chỉ một tên gọi “mục tử” này có gợi lên trong chúng ta nhiều việc phải làm hay không?
Sống Lời Chúa: Nhìn lại “đàn chiên” Chúa giao cho bạn và kiểm điểm vai trò mục tử của bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là mục tử nhân lành, những lỗi lầm của con trong vai trò mục tử đã làm đàn chiên Chúa tan tác, bị bỏ bê. Xin giúp con biết yêu thương và phục vụ họ tận tụy hơn.
THÁNH MARTINÔ PORRES
Ngày 06 tháng 5 năm 1962, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã long trọng suy tôn lên đài vinh quang một vị thánh "da đen" trước mắt 30 Hồng y, rất đông Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và gần 70 ngàn giáo dân. Trong ngày lịch sử này, mọi người đều cảm thấy một niềm vui vô tận, khi nhận thấy trong vườn thiêng của Giáo hội trổ sinh nhiều bông hoa đủ màu sắc: một trong những đóa hoa thơm tho đó chính là Thánh Martinô Porres, trợ sĩ dòng Đaminh, một vị thánh trước con mắt người trần không có địa vị ngôi thứ, hơn nữa, còn thuộc về hạng nô lệ "da đen" hèn hạ. Nhưng trước mắt Thiên Chúa, ngài là một vị thánh đáng cho toàn thể nhân loại kính yêu tôn phục, vì lúc bình sinh, ngài đã triệt để thi thố lòng quảng đại bác ái vô biên đối với tha nhân… Ngài đã bắt chước thánh Phaolô hòa mình với những nạn nhân xấu số để thu hút họ về với Chúa Giêsu.
Thân phụ thánh Martinô Porres là một nhà quí phái nước Tây Ban Nha, về sau làm quan trấn thủ xứ Panama; nhưng thân mẫu ngài là một người nô lệ da đen. Khi sinh ra tất nhiên ngài có nước da "bánh mật", thế nên người cha không muốn nhận ngài là con. Trong sổ rửa tội, Martinô Porres được ghi là "con một người vô danh".
Thực vậy, vì không được sinh ra do một cuộc hôn nhân chính thức, nên ngay từ nhỏ Martinô đã phải mang tiếng xấu ô nhục là con "ngoại tình". Mang tiếng tai ác đó, ngài không thể nào tiến thân trong xã hội. Nhưng thay vì bị thất thế trong tự ti mặc cảm, ngài đã chọn ngay lấy đức khiêm nhường để tiến đức và luyện tập cho mình có một bản lĩnh rất đặc biệt là: đơn sơ, dịu hiền, quảng đại, vị tha v.v…
Để sinh nhai, ngài đã học nghề hớt tóc, là nghề thời đó không nguyên gồm việc cắt tóc, cạo râu, nhưng gồm cả việc mổ xẻ và chữa bệnh. Ngài làm rất giỏi, lại sẵn tình thương người và am hiểu nỗi đau khổ của giới nghèo, nên không mấy chốc ngài đã được dân chúng, bạn hữu tuôn đến rất đông và khiến nghề hớt tóc của ngài dần dà trở thành nghề từ thiện bác ái.
Năm 22 tuổi, ngài vào dòng Đaminh. Thoạt tiên với tư cách là người dòng ba giúp việc, sau vì nhân đức nổi bật, ngài đã được nhận làm thầy trợ sĩ và được khấn trọn đời. Từ đó ngài chuyên lo giúp những người nghèo khổ, ốm đau, nhất là những người da đen. Ngài còn giáo hóa họ và giúp họ hiểu rằng họ cũng là con cái Thiên Chúa và đáng hưởng quyền bình đẳng như mọi người khác.
Như để tưởng thưởng nhân đức của thánh Martinô, ngay từ bình sinh, Chúa đã ban cho thánh nhân được nhiều ơn lạ, như nói tiên tri, làm phép lạ và ngất trí. Một đêm cả thành phố Lima bị động đất, nhà cửa rung chuyển dữ dội. Một thầy sợ hãi chạy đến phòng thầy Martinô tìm chỗ trú ẩn. Thầy gõ cửa nhiều lần mà không thấy trả lời. Thầy lấy tay đẩy mạnh, cửa mở toang, một cảnh tượng kinh khủng hiện ra trước mắt, thầy Martinô nằm dưới đất, hai tay dang ra, tay cầm tràng hạt, mắt lờ đờ. Thầy nọ liền đến bên kêu hoài mà thánh nhân không thưa. Thầy níu áo kéo lôi, thánh nhân cũng không động cựa. Trong phòng thì sáng rực như ban ngày, nên thầy tưởng thánh Martinô đã chết liền bỏ trốn. Lại một đêm khác Juan Vasquez, người giúp việc thánh nhân, vừa bước vào phòng liền thấy ngài quỳ lơ lửng trên không, hai tay giang ra, mắt nhìn thẳng lên tượng Thánh giá, Vasquez khiếp sợ bỏ chạy đi tìm thầy giữ cửa nhà dòng và kể lại cho thầy nghe. Biết câu chuyện, thầy này chỉ mỉm cười nói:
- Em đừng lấy làm lạ, không phải lần thứ nhất người ta thấy như thế đâu? Em sẽ còn thấy thánh Martinô ngất trí như thế nhiều lần nữa.
Ngài còn được ơn điều khiển các loài vật. Ngày kia, một đàn chuột lớn nhỏ không biết từ đâu kéo đến tu viện Santo Rosario cắn quần áo, đồ đạc, làm thiệt hại rất nhiều. Các tu sĩ tìm hết cách đối phó và bỏ thuốc độc thủ tiêu chúng. Thấy vậy, động tình thương, muốn giải thoát cho chúng, ngài gọi một chú chuột nhắt đến mà bảo:
- Này chuột, đã đến lúc nguy khốn cho bay rồi, vì các thầy đang sắp sửa bẫy để tiêu diệt chúng bay, mày hãy chạy đi tìm các bạn đồng loại tập trung ở cuối vườn, ta sẽ nuôi sống chúng bay, nếu chúng bay không làm hại tu viện nữa. Nghe tin ấy, chuột nhắt chạy đi tìm các bạn đồng loại. Trong chốc lát, tất cả chuột lớn chuột nhỏ từng đàn theo sát chân tường bò về phía cuối vườn. Giữ lời hứa với chúng, hằng ngày ngài đem cơm cho chúng ăn và từ ấy tu viện không còn bị nạn chuột phá hoại nữa. Do tích đó mà xưa nay dân chúng thường cầu xin ngài che chở cho khỏi nạn chuột bọ tàn phá. Một họa sĩ Ý còn để lại một bức họa vẽ thánh nhân đang mở cửa phòng thánh để lùa tất các lũ chuột vào một cái thùng, đưa ra đồng và nuôi cho chúng ăn uống đàng hoàng.
Thánh Martinô chẳng những trổi vượt về bác ái, nhưng còn nổi bật về lòng tôn sùng Chúa chịu đóng đinh, phép Thánh Thể và Đức Mẹ Mân côi. Ngài còn đặc biệt cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và tìm giúp đỡ các linh mục túng thiếu. Khi ở nhà dòng, ngài có làm bạn với một thầy rất khiêm nhường. Hiện thầy ấy cũng được phong chân phước, đó là thầy Gioan Massias. Tiếng nhân đức ngài vượt qua bốn bức tường viện tu, do đó lôi kéo đến tận giường bệnh của ngài nằm, từ bậc vua chúa cho đến thứ dân.
Vừa nhân đức, thánh Martinô lại rất thông minh. Dù không bao giờ được học bộ Tổng luận thần học của thánh Tôma, nhưng ngài luôn luôn dẫn giải nó cho các giáo sư, sinh viên và trích dẫn những phần đoạn phân minh. Dù không bao giờ học Thánh kinh, nhưng ngài đã am tường mọi chi tiết, lời lẽ của Kinh thánh.
Ngay trên giường bệnh, và chắc là một cách vô ý thức, ngài còn dạy một bài học cho một vị giáo sư thần học. Vị này, thấy ngài run rẩy, nghiến răng và chảy mồ hôi lạnh trên trán. Tưởng rằng ngài đang phải chiến đấu rất mạnh với ma quỷ đến cám dỗ ngài về đức tin, đức cậy, liền khuyên ngài rằng: "Thầy đừng tranh luận với ma quỷ, vì thầy biết nó quỷ quyệt lắm". Thánh nhân trả lời: "Thật, các nhà thần học cần sợ việc tranh luận với ma quỷ, vì ma quỷ có thể dùng sự khôn ngoan của thiên thần để lừa lọc họ. Còn tôi, tôi tưởng nó cần gì phải dùng đến hết ngón xảo quyệt để làm bối rối và đánh quỵ một người nô lệ da đen khốn nạn này. Điều đó thật bất xứng cho tôi quá!".
Thật là những lời lẽ đầy khiêm nhường, tuy nhiên không kém phần sâu sắc và giá trị!
Để rút lấy một bài học mà thánh Martinô đã để lại, chúng ta hãy đọc những lời lẽ sau đây mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tuyên bố trong buổi tiếp các phái đoàn dự lễ phong thánh, tới yết kiến ngài ngày mồng 07 tháng 5 năm 1962:
- "Trong đời sống của Martinô có ba tình yêu: Tình yêu Chúa Giêsu chịu đóng đinh - Yêu Đức Mẹ mân côi - và yêu Thánh Đaminh. Ngài hằng bốc cháy ba mối đam mê: Ham mê yêu mến người nghèo khó, ốm đau - Ham mê đền tội hãm mình một cách rất nhiệm nhặt mà ngài cho là "Gia đình yêu"- Ham mê khiêm nhường, như để ban ơn sức cho những nhân đức trên. Các con hãy để Ta chú ý riêng đến điểm thứ ba này đôi chút, để được vui sướng chiêm ngưỡng nhân đức đó qua tâm hồn trong suốt của thày Martinô". Đức khiêm nhường đưa người ta nhìn về những giới hạn đích thực của mình, dõi theo đường lối của lý trí. Trên căn bản ấy, linh hồn được hoàn thiện do ơn kính sợ Chúa. Nhờ ơn ấy, người công giáo khi ý thức rằng chỉ nơi Chúa mới là sự thiện và là sự cao cả của chính mình, sẽ tuyệt đối và tôn thờ Người, xa lánh tội lỗi là sự dữ độc ác nhất làm cho người ta xa cách Chúa vĩnh viễn. Đó là bí quyết của đức khôn ngoan thực hành, nó sẽ điều hành sự sống của những con người sáng suốt và kín đáo. Sách thánh nói: "Sự kính sợ Chúa là trường dạy sự khôn ngoan" (Proz 15,35).
Thánh Martinô được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI phong Chân phước năm 1836 và Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII phong thánh năm 1962.
Con Chỉ Là Một Tên Mọi Ðen
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Martinô Porres.
Nhắc đến thánh nhân, người ta thường liên tưởng đến những ơn lạ lùng như xuất thần ngất trí trong khi cầu nguyện, như hiện diện ở hai nơi cùng một lúc, hoặc như có thể trò chuyện và điều khiển cả thú vật.
Vị thánh có lòng bác ái cao độ này lại xuất thân từ một hoàn cảnh vô cùng bi đát và đắng cay. Là con của một thiếu nữ da đen đã từng bị đem bán làm nô lệ vào một nhà quý tộc người Tây Ban Nha, Martinô đã được vị linh mục Rửa Tội ghi trong sổ bộ của giáo xứ là "con không cha". Quả thật, con không cha như nhà không nóc. Martinô đa lớn lên trong cảnh thiếu vắng tình cha mãi cho đến năm 8 tuổị Nhưng sau khi được chính thức thừa nhận không bao lâu, thì người cha lại bỏ rơi gia đình. Một lần nữa, cậu bé Martinô lại rơi vào cảnh khốn khổ như đa số các em bé nghèo của thành phố Lima, Pêru vào giữa thế kỷ thứ 16.
Nhưng cảnh nghèo ấy đã không gieo vào lòng cậu bé mang hai dòng máu này chút đắng cay nàọ Trái lại, cậu tiếp nhận mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống như một thách đố, như một ân sủng.
Năm 12 tuổi, Martinô đã được học nghề hớt tóc và đôi chút xảo thuật của ngành giải phẫụ Vừa hành nghề như một người thợ hớt tóc, vừa như một y tá, Martinô đã đem hết sự hăng say và tận tụy của mình để phục vụ những người nghèo đồng cảnh ngộ.
Nhưng nhận thấy chỉ có thể sống trọn Ðức Ái trong một tu viện, Martinô đã đến gõ cửa một nhà dòng Ðaminh để xin được làm trợ sĩ trong nhà� Bí quyết nên thánh của thầy Martinô là sám hối cầu nguyện và phục vụ, nhất là phục vụ trong những công việc vô danh nhất. Lần kia, nhà dòng mang nợ đến độ không thể bảo đảm được các nhu cầu của các tu sĩ, thầy Martinô đã đến thưa với Bề trên như sau: "Thưa cha, con chỉ là tên mọi đen. Xin hãy bán con đi".
Sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình cho người khác, thầy Martinô cũng luôn nhận tất cả phần lỗi về mình.
Ôn lại gương hy sinh, cầu nguyện và bác ái của thánh Martinô, không những chúng ta chỉ chạy đến xin ngài bầu cử trong những lúc gặp gian nan thử thách, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là lòng tin thác vào Chúa quan phòng của thánh nhân mà chúng ta cần học hỏi, nhất là trong giai đoạn gặp khó khăn này.
Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con ngườị Ðó phải là niềm xác tín của chúng tạ Một Thiên Chúa quan phòng là Ðấng có thể biến tất cả những đắng cay, buồn phiền, thất bại, khổ đau trong cuộc sống con người thành khởi đầu của một nguồn ơn cao quí hơn. Cũng như loài ong chỉ rút mật ngọt từ bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, cũng thế, người có niềm tin luôn có thể rút tỉa được những sức đẩy mới từ những thất bại rủi ro trong cuộc sống. Thánh Martinô đã không hận đời đen bạc vì bị người cha bỏ rơi, mà trái lại xem đó như một dịp may để cảm thông, để học hỏi và để phục vụ người khác hữu hiệu hơn. "Hạt lúa rơi xuống đất có mục nát đi mới trổ sinh được nhiều bông hạt". Ðó là định luật của cuộc sống. Thập giá trong cuộc sống thường là khởi đầu và cơ may cho một vươn lên cao hơn.
Chúng ta thường chạy đến khẩn cầu với thánh Martinô trong cơn hoạn nạn thử thách, chúng ta cũng hãy noi gương ngài để phó thác cho Tình Yêu quan phòng của Chúa, và nhất là xin Ngài cũng giúp chúng ta luôn biết lấy Tình Thương để thắng vượt những ngược đãi của người đời, cũng luôn biết sẵn sàng phục vụ và phục vụ bằng chính mạng sống của mình.